Đi tìm chân lý
Tham gia
25/1/24
Bài viết
540

Trong dòng chảy xã hội hiện đại, khi mọi vấn đề đều có thể trở thành chủ đề thảo luận công khai, câu nói "Làm được gì chưa mà lên tiếng?" thường xuất hiện như một rào cản đối với những ý kiến phản biện. Liệu đây có phải là một lập luận hợp lý để phân định giá trị của lời nói trong xã hội? Hay nó chỉ là một công cụ nhằm ngăn chặn những tiếng nói không thuận tai?​


phailamgi_không làm thì có quyền lên tiếng không_cv.jpg

Ảnh: machsongmedia.org

Sự ngụy biện của lập luận "làm rồi hãy nói"

Lập luận "làm được gì rồi hãy nói" nghe qua có vẻ công bằng và hợp lý, nhưng thực chất nó mang tính ngụy biện, bởi nó gạt bỏ vai trò của tư duy và ngôn luận – hai yếu tố cốt lõi của mọi nền văn minh.

Xét về bản chất, việc "nói" và "làm" không phải lúc nào cũng đồng hành. Một nhà tư tưởng không nhất thiết phải trực tiếp tham gia vào hành động cụ thể, nhưng ý tưởng của họ có thể là khởi đầu cho những thay đổi to lớn. Lịch sử minh chứng rằng nhiều phong trào vĩ đại khởi nguồn từ những tiếng nói dám chất vấn thực tại, ngay cả khi người phát ngôn không trực tiếp thực thi giải pháp.

Quyền lên tiếng – Một quyền cơ bản của con người

Quyền lên tiếng là nền tảng của mọi xã hội tự do. Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền năm 1948 đã khẳng định quyền tự do ngôn luận như một quyền không thể tước đoạt. Thế nhưng, trong thực tế, những câu hỏi như "Không làm được thì nói làm gì?" thường xuất hiện như một cách để bịt miệng những người yếu thế hoặc không nắm giữ quyền lực.

Luận điểm này vô tình tạo ra một môi trường nơi những ý kiến từ tầng lớp "thấp" bị coi nhẹ, trong khi những người có quyền lực – dù hành động của họ chưa hiệu quả – lại được mặc nhiên xem là đáng tin cậy. Điều này dẫn đến nguy cơ độc quyền trong tiếng nói và làm giảm sự đa dạng trong cách nhìn nhận các vấn đề xã hội.

Vai trò của tư duy phản biện

Một xã hội tiến bộ không chỉ cần những người làm mà còn cần những người dám đặt câu hỏi, dám phân tích và dám phản biện. Chính tư duy phản biện tạo nên động lực để hành động trở nên hiệu quả và ý nghĩa hơn. Việc chỉ trích những người "chỉ nói mà không làm" vô tình làm suy yếu khả năng tự sửa chữa của xã hội.

Không ít trường hợp, hành động không đi kèm với suy nghĩ đã dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng. Một chính sách thiếu lắng nghe tiếng nói đa chiều có thể gây tổn hại lớn hơn cả sự im lặng. Ngược lại, những ý kiến sắc bén, dù chưa đi kèm với hành động, vẫn có thể dẫn lối cho những bước đi đúng đắn hơn.

Thách thức về trách nhiệm ngôn luận

Tuy nhiên, để bảo vệ quyền lên tiếng không có nghĩa là bỏ qua trách nhiệm của người phát ngôn. Mỗi lời nói, mỗi ý kiến cần được xây dựng trên cơ sở sự thật và tinh thần xây dựng. Xã hội không cần những tiếng nói chỉ trích vô căn cứ hay những lời nói nhằm mục đích gây chia rẽ. Quyền tự do ngôn luận không đồng nghĩa với quyền nói bất cứ điều gì mà không chịu trách nhiệm.

Những người "chỉ nói" cần ý thức rằng lời nói của mình có thể tạo ra ảnh hưởng lớn, cả tích cực lẫn tiêu cực. Vì thế, trách nhiệm với những gì mình phát ngôn là yếu tố không thể tách rời khỏi quyền được nói.

Lời kết: Giá trị của sự đa dạng trong tiếng nói

Một xã hội lành mạnh không thể chỉ được xây dựng bởi những người hành động, mà còn bởi những người dám lên tiếng. "Không làm thì có được quyền lên tiếng?" không phải là câu hỏi cần được đặt ra để xét đoán giá trị của một ý kiến. Thay vào đó, chúng ta nên tự hỏi: "Ý kiến này có đúng đắn và mang lại điều gì tích cực hay không?"

Hãy mở rộng không gian cho mọi tiếng nói, bởi chính từ sự đa dạng ấy mà xã hội tìm thấy sự cân bằng và tiến bộ. Làm và nói không phải là hai mặt đối lập, mà là hai dòng chảy bổ trợ, giúp chúng ta xây dựng một cộng đồng vững mạnh, nơi mọi người đều có cơ hội đóng góp, dù là qua lời nói hay hành động.​

Phải Làm Gì?
Docat 99: Sự tham gia có thể thể hiện như thế nào trong thực tế?
Điều kiện tiên quyết cho sự tham gia thích hợp là nền giáo dục vững chắc và nguồn thông tin lành mạnh. Sự tham gia phải có mức độ đúng đắn, và không bị dùng sai để chỉ mưu cầu lợi ích cá nhân. Sự tham gia cũng không nên chỉ gồm có mỗi quyền bỏ phiếu bầu cử (GS 30-31; CA 51-52). Về điểmnày, học thuyết xã hội của Giáo Hội phê bình gay gắt nhữngchế độ độc tài nhìn bất kỳ sự tham gia nào của công dâncũng chỉ như một mối đe doạ. Ngoài và vượt trên quyền bầucử, các Kitô hữu còn cần phải dấn thân vào xã hội, bất kể sựdấn thân này thực hiện trong nội bộ giáo xứ, một đảng pháichính trị hay một đoàn thể gần gũi. Giáo dân nên đào luyệnđể có khả năng chuyên môn trong nhiều vấn đề xã hội vànhờ đó mới có thể cộng tác vào việc định hình cộng đồngđịa phương (GS 43). Dĩ nhiên, một Kitô hữu không nên chỉtham gia vào xã hội với tư cách cá nhân, mà còn nên tạođiều kiện cho những người khác cùng tham gia với mìnhtrong tư cách liên đới nữa. Sự tham gia của tất cả mọi ngườithật sự là cốt lõi của sự công bằng tham gia – mà sự côngbằng tham gia này, đến lượt mình, là yếu tố quyết định củacông bằng xã hội nói chung. Việc loại trừ các cá nhân rangoài là hành vi phủ nhận phẩm giá của họ, và do đó viphạm mệnh lệnh phải tôn trọng con người.​
 

Từ tình trạng giao thông ...

0 lượt xem

Bài viết chờ bạn bình luận

Bên trên