phailamgi?
Tham gia
18/12/23
Bài viết
479

Pope_LeoXIII.jpg

THÔNG ĐIỆP RERUM NOVARUM(TÂN SỰ) CỦA ĐỨC GIÁO HOÀNG LÊ-Ô XIII
VỀ HOÀN CẢNH CỦA GIỚI CÔNG NHÂN

(Phần III)

III. VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC

25.Hành động chung của tất cả mọi người​

Tuy nhiên muốn cho công cuộc kết quả theo ý sở nguyện, Giáo hội cần phải nhờ những tổ chức trần thế nữa. Tất cả mọi người bận trí về vấn đề phú bần và thành thực tìm giải pháp, đều nhằm chung một mục đích, và cộng tác với nhau chặt chẽ, mỗi người trong phạm vi riêng của mình. Công cuộc này như in ảnh Chúa quan phòng quản trị thế giới.

Chúng ta đã nghiệm rằng: sự thường những công việc và những biến cố tùy thuộc nhiều nguyên cớ khác nhau, cũng là kết quả bởi những nguyên cớ do hành động phối hợp với nhau.

Vậy, để giải quyết vấn đề phú bần này, ta có thể đòi hỏi những gì ở các chính phủ quốc gia? Khi nói về chính phủ quốc gia là không có ý chỉ riêng những chính phủ hợp pháp, được thiết lập do dân nọ nước kia mà thôi. Ta có ý chỉ bất cứ chính phủ nào xứng với quy điều của thiên nhiên giáo lý của Chúa và cả những huấn từ Ta đã tuyên bố, đặc biệt trong bức thông điệp “hiến pháp kitô hữu của xã hội quốc gia”.​

26.Phục vụ công ích​

Quốc trưởng nào cũng phải nhờ luật pháp và chế độ quốc gia, để góp phần chung vào việc giải quyết các vấn đề, nghĩa là họ phải hành động thế nào cho hiếp pháp và tổ chức hành chánh gây nên sự thịnh vượng toàn quốc và riêng cho từng công dân. Vì đó là vai chính của mọi chính khách khôn ngoan và phận sự riêng của các nhà cầm quyền.

Vậy quốc gia thịnh vượng bởi những gì?

Thưa bởi thuần phong mỹ tục: những gia đình căn cứ vào nền trật tự và luân lý, một đời sống tôn giáo thành thực, một lòng tôn trọng đức công bằng, một tổ chức thâu thuế phải lẽ, phân chia công vụ vô tư lợi, một tổ chức công thương tân tiến, canh nông thịnh lợi, và các ngành tương đương cần phải mở mang để tăng thêm tiện nghi phúc lợi cho toàn dân.

Quả thực đó là những phương tiện chính phủ dùng để mưu ích cho đủ mọi giai cấp xã hội nói chung và cho giai cấp lao động bớt phần cực khổ nói riêng. Chính phủ toàn quyền đến việc đó, không phải sợ ai chỉ trích vì đã can thiệp vào việc kẻ khác. Chính vì nhiệm vụ chính quyền phải phục sự công ích.

Dĩ nhiên những lợi ích chung do chính quyền lưu tâm và gây nên, càng tăng lên thì người ta càng ít cần đến những phương tiện khác mà sửa chữa số phận của phái lao động.​

27.Tư cách công dân chung và tổ chức tư pháp phân phối​

Nhưng đây còn một nhận xét chú trọng đến vấn đề ta đang thảo luận! xã hội tồn tại vì một lý do duy nhất và liên hệ tới tất cả mọi công dân lớn nhỏ phú bần. Theo luật tự nhiên, bần dân cũng như phú gia đều là công dân bình quyền như nhau: nghĩa là bần dân cũng là phần tử hiện thực và sống động kết thành những gia đình, và nhờ đó kết thành toàn thể quốc gia. Nói cho đúng, ở bất cứ quốc gia nào bần nhân kể như là đa số. Lo một hạng công dân mà lãng quên mọi hạng khác, thì tất là phi lý. Chính vì lý do đó mà chính quyền nhất định phải dùng những biện pháp thích hợp để bảo vệ mạng sống và quyền lợi của phái lao động. Lỗi phận sự ấy là lỗi công bằng tuyệt đối vốn buộc rằng của ai phải trả cho kẻ ấy. Về điểm ấy Thánh Thomas có câu đầy ý nghĩa: phần tử và toàn thể nói được là một. Thành ra cái gì là của toàn thể cũng nói được là của từng phần tử vậy (2a 2ae 61 đoạn 1,2).

Bởi thế, trong những nghĩa vụ hệ trọng và phức tạp, chính quyền phải đảm nhận để gây công ích cho đúng phép, nghĩa vụ trọng nhất là săn sóc công dân đủ mọi giai cấp, theo những luật lệ ráo riết của công bình xã hội thường gọi là “phân công” thưởng phạt hợp lý.

Tất cả mọi công dân không trừ người nào, đều phải góp phần vào của chung. Đàng khác, của chung tất nhiên lại phải hưởng dụng để mọi công dân chia phần lợi. Tuy nhiên, phần góp của từng cá nhân không thể như nhau và cũng không thể bằng nhau được. Bất cứ chế độ và chính thể xã hội phải thay đổi thể nào, thì công dân không bao giờ ở cùng một địa vị ngang nhau được. Công dân khác địa vị và giai cấp là lẽ sống còn của xã hội, thiếu điều đó không ai nghĩ ra một quan niệm xác đáng về xã hội được nữa. Dầu thế nào mặc lòng, trong xã hội phải có những người quản trị lập pháp, xử đoán, rồi giải quyết vấn đề bình loạn; hoặc theo lời cố vấn, hoặc theo lối tự quyết hạ lệnh. Dĩ nhiên những người ấy chiếm được một địa vị cao hơn, và giữ ngôi độc tôn, vì họ phụ trách công ích một cách trực tiếp. Trái lại công dân, góp phần vào công ích, tùy theo nghề nghiệp, chẳng còn phương tiện nào hiệu lực cho bằng.

Nhưng dầu họ chỉ gián tiếp ủng hộ công ích, họ cũng đã góp phần rất lớn vào phúc lợi chung của xã hội. Công ích nói đây tự nhiên phải giúp công dân hoàn thiện đời sống trước đã, nên không ai chối được của chung trước hết thuộc về luân lý và tinh thần. Nhưng hễ xã hội nào được tổ chức tinh xảo, công ích cũng phải bao quát một phần vật chất dư dật. Dầu vật chất chỉ có ích bề ngoài, cũng phải có đủ, thì con người dễ sống đạo đức được. Vậy trong việc sản xuất đồ vật hữu ích này, công nhân ở xưởng máy, nông phu ở đồng quê, nói được là người hiệu lực nhất. Hơn nữa, năng xuất của họ dồi dào đến nỗi Ta buộc lòng nói quả quyết rằng: Quốc gia phú cường hay sa sút, hoàn toàn tùy theo năng lực công nhân và nông phu.

Vì thế, lẽ công bằng buộc chính phủ phải tận tâm chăm lo cho phái lao động.

Chính phủ phải liệu thế nào cho phái lao động được hưởng phần lợi do các của cải của họ cung cấp cho xã hội: họ phải có nhà ở, quần áo và đồ dùng để cho đời sống họ bớt phần khó nhọc và thiếu thốn; thành ra chính phủ phải ủng hộ mọi công cuộc có tính cách cải thiện đời sống công nhân, hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp.

Chính phủ ân cần với phận sự ấy, không những sẽ không gây thiệt hại cho ai, mà trái lại sẽ mưu ích chung cho các công dân, vì chẳng có gì giúp ích cho dân nước an thịnh, bằng trù liệu thể nào cho người sản xuất đủ đồ dùng cần thiết cho xã hội, cũng thoát khỏi cảnh muôn phần túng cực.​

28.Công quyền giữ gìn lợi ích công cộng và riêng tư​

Trật tự xã hội theo lời Ta đã nói trên: cấm chính phủ không được chi phối cá nhân và gia đình. Đúng ra thì cả hai phải đủ tự do hành động trong mọi phạm vi không đụng chạm công ích và không làm hại cho kẻ khác. Nhưng dầu sao chính quyền cũng có phận sự phải săn sóc toàn thể và các thành phần của xã hội. Toàn thể, vì Tạo Hóa ủy việc bảo tồn quốc gia cho chính quyền. Vận mạng dân nước không những là quy tắc tối thượng mà còn là nguyên nhân và lý do tồn tại của chính quyền. Thành phần, vì theo luật tự nhiên, không những chính quyền phải mưu ích cho những người hiện đang hành quyền, mà lại phải bảo tồn phúc lợi cho cả công dân phục vụ quyền nữa. Về điểm ấy, triết lý và giáo lý Chúa Kitô đều đồng ý. Ngoài ra, mọi quyền bính đều bởi Thiên Chúa, và chỉ thông phần quyền uy tối thượng của Người. Bởi thế, những người được Chúa ủy quyền thì phải hành quyền ấy theo gương Chúa, là Cha nhân lành, cùng một lòng săn sóc từng con vật, cũng như Người trông nom cả vũ trụ. Thành ra hễ khi nào lợi ích chung hay lợi ích riêng của một giai cấp bị xâm phạm hay lâm nguy, mà không thấy phương cách nào khác để cứu trợ thì tất nhiên phải yêu cầu chính phủ can thiệp.​

29.Quốc gia can thiệp để bảo vệ người lao động​

Điều kiện cần thiết cho tổ quốc và từng công dân được cứu trợ, là tổ chức trật tự và an ninh ở khắp nơi. Phận sự toàn diện là:​
  1. Quy định mọi chi tiết trong gia đình theo Đạo thánh Chúa và luật tự nhiên;​
  2. Bắt mọi công dân tôn trong và noi giữ tôn giáo;​
  3. Tận tâm bảo vệ thuần phong mỹ tục trong đời sống công và đời sống tư;​
  4. Kính cẩn tuân giữ công bằng và không bao giờ để cho một giai cấp nào áp bức một giai cấp khác mà không bị trừng phạt;​
  5. Sinh trưởng và giáo dục những thế hệ cường tráng để chống đỡ, và nếu cần bảo vệ non sông nữa.​
Bởi vậy, nếu phái lao động làm dở dang với công việc, tổ chức đình công vô lý, làm rối cuộc trị an nếu tinh thần thích nới lỏng giữa đám công nhân; nếu tôn giáo bị giày xéo trong giai cấp lao động, vì chủ nhân làm ngăn trở cho họ khó trọn phận sự đối với Thiên Chúa; nếu trai gái chung lộn hay xảy ra những cuộc khiêu dâm khác, làm bại hoại phong hóa trong xưởng máy; nếu chủ nhân ức bách thợ thuyền quá độ và bất công, lại bắt họ gánh vác những ách nô lệ gian ác trái ngược với nhân phẩm của họ; nếu chủ nhân bắt họ làm những việc quá sức không đúng tuổi tác, không hợp chủng tính nam nữ của họ, thì trong trường hợp đó chính quyền buộc phải dùng luật pháp mà can thiệp tùy theo công lý chỉ dạy. Lý do bắt buộc luật pháp can thiệp, cũng ấn định giới hạn can thiệp của luật pháp: Nghĩa là ngoài sự ngăn ngừa tai hại và sửa chữa cơn bệnh, luật pháp phải dừng lại không được làm gì hơn. Trong bất kỳ vi phạm nào, chính quyền phải tôn trọng mọi quyền lợi thích đáng. Phận sự chính phủ là bảo tồn quyền lợi công dân, hoặc ngăn đón chớ để ai phạm đến, hoặc xử phạt kẻ đã lỗi phạm.

Tuy nhiên chính phủ bênh vực quyền lợi cá nhân, thì phải đặc biệt chú trọng đến kẻ yếu hèn và bần cùng. Hàng phú gia đủ tiền của bảo vệ mạng sống, cần gì phải có chính quyền che chở nữa. Trái lại, hạng dân đen đâu có tiền quan bạc nén mà tránh được những nỗi bất công! Họ cần nhờ chính phủ bảo vệ thì mới thoát nạn xã hội được. Vì vậy chính phủ phải chú trọng đến hạng người lao công một cách ân cần hơn, vì họ ở bậc đa số những người vô sản phận bạc.​

30.Bảo vệ phong tục và các quyền tư hữu​

Vì công ích đòi hỏi, ta nên bàn giải riêng về vấn đề quan trọng sau đây:

Trước hết, pháp luật quốc gia phải ủng hộ và bênh vực quyền tư hữu một cách đặc biệt. Thiên hạ ngày nay bồng bột trôi theo những dục vọng sôi nổi. Việc khẩn cấp chính phủ phải đảm nhiệm là buộc dân tôn trọng nghĩa vụ không bao giờ phạm đến.

Ai cũng cố sức vươn mình lên một địa vị khả quan, nhưng không ai ra khỏi biên giới công bằng được. Trái lại, dùng võ lực mà cướp đoạt tài sản của kẻ khác, viện cớ bình đẳng mơ hồ là những hành động bị công lý lên án, bị công kích cự tuyệt. Đã hẳn, số công dân tìm cải hóa thân phận bằng những công việc liêm chính, tránh mọi sự bất công vẫn là đa số. Nhưng cũng không thiếu gì công dân bị những tà thuyết nhồi sọ, ham chuộng những sự kỳ lạ, nên cứ dùng mọi phương cách gây loạn mà lôi cuốn bạn bè đến lao động. Khi ấy chính phủ phải dùng đến quyền riêng để can thiệp. Giam cầm những tay chủ động xúi dục dân chúng, chính phủ mới che chở những công tục khỏi bị phá hoại, và bảo vệ những sở hữu hợp pháp khỏi bị cướp bóc.​

31.Phòng ngừa các cuộc đình công​

Vì công việc nhiều khi kéo dài mãi, rất đỗi nặng nề, tiền lương trả công lại quá hạ, thì thường xảy ra những đồng mưu đình chỉ công việc giữa hàng công nhân. Họ đình công.

Vậy trong trường hợp đó, chính phủ phải điều trị những tai hại rất thường và nguy hiểm ấy. Những cuộc đình công ấy quả thật gây thiệt hại lớn cho cả chủ nhân và công nhân. Hơn thế nữa những cuộc ấy làm ngưng trệ việc thương mại, và hại đến công ích xã hội rất nhiều. Vì những cuộc đình công trên thường hóa thành những vụ bạo động và hỗn loạn, nên sự an ninh quốc gia lâm nguy là sự thường.

Bởi thế giải pháp hiệu nghiệm và hữu ích hơn là chính phủ lập luật, để dự phòng tai hại và ngăn ngừa nó trước để nó khởi phát ra. Như vậy, chính phủ khôn khéo bài trừ đủ mọi lý do thường hay gây nên sự xung đột giữa chủ và thợ.​

32.Tôn trọng phẩm giá con người: Bảo đảm việc nghỉ ngơi hàng tuần​

Công nhân còn rất nhiều quyền lợi đòi chính phủ phải hết sức bảo vệ. Trước hết là những lợi ích phần hồn. Mạng sống thể xác, dù quý báu đáng chuộng đến đâu đi nữa, cũng không phải là cùng đích đời người. Nó chỉ là đường lối và phương tiện đưa người đến sự chân thực thiện mỹ, cần thiết cho phần hồn được hạnh phúc hoàn hảo; chính phần hồn của con người là giống Chúa và mang lấy hình ảnh của Chúa đã in sâu vào mình ta. Chính vì phần hồn mà con người giữ được chủ quyền. Thiên Chúa phú ban khi ra lệnh cho nhân loại khôi phục thiên hạ mà khiến cả bốn bể năm châu phải cấp sự cần cho nó: “Hãy sinh sôi cho đông và chinh phục cả hoàn cầu. Hãy cai trị loài cá dưới biến, loài chim trên trời, cùng loài cầm thú ở khắp mặt đất.”

Về phương diện này, mọi người đều bình quyền như nhau, kẻ giàu người khó, chủ tớ, vua tôi không có chỗ nào khác nhau. Hết thảy đều chỉ một chúa tể như nhau. Không ai phạm đến chức phẩm con người mà không phải tội vạ. Chức phẩm ấy được chính Thiên Chúa tôn trọng, cũng không ai được cản trở con người tiến đến sự hoàn thiện đối ứng cùng đời sống trường sinh trên thiên đàng. Hơn nữa chính con người bị cấm không được phế bỏ nhân phẩm của mình, mà hạ giá linh hồn đến bậc nô lệ. Nhân phẩm không phải chỉ là một quyền. Ai cũng tùy ý tôn trọng khinh thường đâu. Đó là chức vụ, buộc con người lại với Chúa, ai cũng phải kính cẩn đảm nhiệm.

Vì chức vụ bất khả xâm phạm này, ngày Chúa nhật con người bắt buộc phải nghỉ ngơi và ngừng tay làm. Ngày nghỉ này không phải một ngày an nhàn cho mình ở nhưng vô ích; hay theo ý nguyện của đa số, cho mình tha hồ thỏa mãn dục vọng, phung phí tiền lương. Ngày ấy cần phải thánh hóa, đúng theo đạo Chúa dạy. Được tôn giáo thánh hóa, Chúa nhật công nhân nghỉ việc để dưỡng sức và tạm quên những mối lo thường ngày. Ngày ấy cũng gây dịp cho công nhân hứng tâm lên, suy gẫm đến những lẽ sống siêu nhiên.

Đó là đặc tính và lý do tại sao con người buộc phải nghỉ ngày thứ bảy. Chính Thiên Chúa đã biên ghi điều ấy trong bộ luật Cựu ước rằng: Hãy nhớ thánh hóa ngày thứ bảy. Đã hoàn tất công việc tạo thiên lập địa mà dựng nên con người rồi, Thiên Chúa làm gương bí nhiệm nghỉ ngơi: ngày thứ bảy, đã hoàn tất công việc Thiên Chúa an nghỉ…​

33.Xác định điều kiện và thời giờ làm việc​

Về những quyền lợi vật chất và phần xác, chính phủ cư xử thế nào?

Trước hết chính quyền phải cứu giới lao công khỏi tay những người mưu trí bóc lột; họ chẳng phân biệt con người với bộ máy, nên cứ lợi dụng công nhân làm đồ thỏa mãn tham vọng quá đáng của họ. Bắt công nhân làm việc đến nỗi thần trí họ phải đần độn, thân xác hao mòn kiệt quệ, là một thái độ bất nhân, công lý và nhân đạo không thể dung tha được.

Năng lực hoạt động của con người cũng có hạn, không kém bản thân nó. Năng lực ấy tự nhiên có thể tăng lên vì thói quen và sự tập luyện. Nhưng thể nào cũng phải có những giờ rảnh rang nghỉ việc. Tỉ dụ như giờ làm việc mỗi ngày không được vượt quá chừng mực làm việc của công nhân. Nhưng giờ nghỉ xếp đặt tùy theo công việc nặng nhẹ; công nhân khỏe yếu thể nào cũng phải tùy theo từng nơi và thời tiết. Những công nhân đêm ngày bới đất tìm tòi mỏ khí như đá, sắt, đồng thì làm một công việc khó nhọc và hại cho sức khỏe. Vậy việc làm càng mệt nhọc thì những giờ phải càng rút ngắn.

Cũng nên xét tùy theo thời tiết nữa. Tỉ dụ có những công việc mùa này thì dễ, mùa kia hoặc không ai chịu được, hoặc có người làm nhưng phải vất vả vô cùng.

Sau nữa có việc đàn ông khỏe mạnh, người trai tráng làm được, thì không ai bắt đàn bà hay thiếu nhi phải làm, nhất là các thiếu nhi – điều này rất quan trọng – cấm không được vào xưởng máy nào, trước khi sinh lực phần xác, phần hồn và luân lý được mở mang điều hòa. Quên điều ấy nhiếu nhi sẽ như cây cỏ non tàn úa sớm, vì lúc còn đã đi làm, nên không được giáo dục cẩn thận.

Cũng có công việc không hạp với tính tự nhiên của phụ nữ, vốn được Tạo hóa ủy quyền cho họ việc tề gia nội trợ. Ngoài ra các công việc vốn bảo toàn danh dự của nữ giới và thích hợp với nhiệm vụ tự nhiên giới này, là giáo dục con cái và phát triển gia nghiệp.

Vậy cứ luật chung, thời hạn nghỉ việc phải tính theo sức lực công nhân phải hao tổn, nên cần tu bổ lại. Quyền nghỉ hàng ngày và đình chỉ công việc chúa nhật là điều kiện phải ghi chú công khai hay mặc nhiên trong giao kèo giữa chủ và thợ. Bản giao kèo nào không thừa nhận điều kiện ấy thì phải kể như bất nhân, vì không chủ nào ép buộc công nhân và không công nhân nào hứa được sẽ phạm đến bổn phận con người đối với Chúa và đối với nhân phẩm của mình.​

34.Chăm lo việc ấn định một lương bổng công bằng​

Bây giờ ta chuyển sang một điểm quan trọng khác cũng thuộc về vấn đề này: muốn giải quyết điểm ấy, mà tránh được mọi sự quá đáng, thì trước hết ta phải định nghĩa cho đúng. Phải trả công thợ thế nào cho phải chăng? Kẻ thì rằng: về tiền công, thì chủ thợ tự ý thỏa thuận; chủ trả tiền thợ đúng theo giao kèo thì đôi bên không phải thắc mắc gì nữa. Họ chỉ phạm lỗi công bình khi chủ trả tiền thiếu, hay khi thợ không làm trọn công việc theo đúng với bản giao kèo. Trong trường hợp không ai ngoài chính phủ phải can thiệp để bảo vệ quyền lợi đôi bên.

Kết luận như vậy, không ai là thẩm phán chính trực nhận được vô điều kiện… vấn đề trả công thợ rất phức tạp. Giải pháp nói trên, thì nông cạn mà lại quên lãng một điều mà là điểm chính: làm việc, là xuất lực kiếm kế sinh nhai, để cấp đủ sự cần cho đời sống, và nhất là để duy trì mạng sống của mình; “con sẽ đổi bát mồ hôi bát cơm” vì thế cần lao có hai đặc điểm tự nhiên:​
  1. Nhân cách: Cần lao bày tỏ nhân cách của con người: năng lực sản xuất, phụ tùy bản thân con người. Nó ở dưới chủ quyền của người động viên, hưởng dụng và lĩnh nhận nó để bổ khuyết bản thân, và mưu cho đời sống riêng của mình.​
  2. Cần thiết: Cần lao lại cần thiết, vì con người phải dùng những hiệu quả bởi công việc đã làm ra, để duy trì mạng sống là một phận sự Tạo Hóa buộc ai nấy phải đảm nhận. Lệnh Tạo Hóa thì tuyệt đối, ai cũng phải tuân phục. Vì cần lao bày tỏ nhân cách phụ thuộc chủ quyền của công nhân, thì tất nhiên công nhân tự do giảm bớt định giá tiền lương chủ trả công cho. Người quyết chí xuất công, thì tự do đòi tiền lương nhiều hay ít, có lẽ lại không đòi hỏi đồng nào hết.​
Nhưng cần lao cần thiết để duy trì mạng sống, ai cũng nhớ không quên. Sự thực hai đặc điểm nhân cách và cần thiết của cần lao, có thể phân tách trong lý trí, nhưng trong thực tế thì cả hai đi đôi với nhau. Bảo tồn sinh mạng là một bổn phận bắt buộc. Ai phạm đến thì phải mắc tội. Đã nhận bổn phận ấy lẽ cố nhiên, ai cũng có quyền tìm kiếm những sự vật cần thiết để nuôi thân. Mà kẻ nghèo thường phải lấy gì để sinh sống? Họ chỉ biết nhờ tiền công làm lụng vất vả mà có.

Cho nên chủ thợ cứ giao ước với nhau tùy ý họ. Họ cứ thỏa thuận với nhau về số tiền công phải có bao nhiêu. Nhưng trên mọi ý định của họ, có một điều luật công bằng tự nhiên vừa cao hơn, vừa lâu dài hơn mà họ không được phế bỏ. Luật ấy định giá tiền công phải đủ cho những công nhân tiết kiệm và liêm chính được nuôi sống cho xứng nhân vị con người. Giá như công nhân vì tình trạng khốn cực hay vì sợ mắc phải họa ghê hơn, buộc lòng phải nhận những điều kiện khắt khe do chủ nhân hay người thuê mình đưa ra, thì người bị áp bức chịu thiệt, là một tội ác công lý không thể nào tha được.

Trong những trường hợp này, và những trường hợp khác tương đương; về những chi tiết định công nhật, săn sóc sức khỏe công nhân trong xưởng máy… chính quyền khó can thiệp cho thích nghi và hiệu nghiệm, vì đó là những hoàn cảnh tùy theo thời tiết và từng nơi, thành nên dành quyền can thiệp và giải quyết cho các hiệp hội hay nghiệp đoàn ta sẽ nói kèm theo đây. Không tin những hội đoàn ấy, thì hãy tìm phương pháp khác để bảo vệ quyèn lợi công nhân, và nếu cần hãy kêu đến chính phủ xin trợ lực bảo vệ.​

35.Khai triển tinh thần sở hữu​

Công nhân lãnh lương vừa phải sẽ lo thỏa mãn sự cần riêng và cấp đủ nhu cầu cho gia đình, nếu là người khôn ngoan thì sẽ sinh sống tiết kiệm nữa. Nghe theo lời thiên nhiên ngấm ngầm khuyên bảo, người công nhân sẽ dành dụm ít tiền của để một ngày kia được tạo ra một gia nghiệp phải chăng.

Quả thật, ai cũng đủ rõ, muốn giải quyết được vấn đề này cho có hiệu quả, thì trước hết ta phải nhận quyền tư hữu là một quyền căn bản bất khả xâm phạm. Pháp luật phải hết sức ủng hộ, đánh thức, đề cao tinh thần sở hữu trong đủ mọi tầng lớp xã hội lao động. Nó sâu rộng chừng nào thi hay chừng nấy! Kết quả này mà thu được, thì nó sẽ là một nguồn lợi quý hóa biết bao.

Trước thì sự phân công chia của chắc được công bằng hơn. Vì những cuộc đảo lộn xã hội kịch liệt hiện tại, thì xã hội bị chia ra làm hai giai cấp cách nhau một vực một trời. Một giai cấp thì thế lực mạnh mẽ vì giàu sang qúa đỗi có toàn quyền đến công thương, cho nên những nguồn phú quý đều quy tụ về với họ, nên họ dành riêng đủ mọi mối lợi. Ngoài ra, họ cầm sẵn trong tay những then chốt của nền hành chánh quốc gia. Còn giai cấp kia thì thu hợp lại đa số những người yếu nhược bần cùng, chỉ cùng chung một lòng oán hận, lúc nào cũng sẵn sàng nổi lên quấy rối.

Vậy ta biết thúc đẩy lòng dân phấn khởi lên vì hy vọng mai này, sẽ được một phần đất sở hữu riêng, ắt các vực sâu đã phân chia giai cấp phú quý và gia cấp bần cùng sẽ được lấp đầy dần dần, và hai giai cấp hiện kình địch nhau sẽ lại thân thiện với nhau.

Lại nữa, thiên nhiên sẽ sản xuất hoa màu công ích gấp trăm ngàn lần. Theo bản tính con người khai khẩn một nguồn lợi để làm sở hữu riêng, thì càng hăng hái và siêng năng làm việc hơn. Nhiều khi họ để cả lòng trí vào đám đất đã cày cấy, vì đám đất ấy hứa cho họ và cả gia đình những sự thiết dụng và cả một ít sự thư thái nữa. Ai cũng thấy lòng siêng năng hăng hái kia mang lại bao kết quả tốt đẹp hơn, tức là đất thêm phần phì nhiêu, quốc gia lại thêm phần phong phú.

Còn một kết quả nữa: phong trào tản cư đi chỗ khác sẽ ngừng lại, hẳn không ai tình nguyện bỏ quê cha đất tổ để sang ở những xứ lạ, nếu kẻ ấy đã có đủ kế sinh nhai nơi quê nhà.

Cuối cùng, thì có một điều kiện cần thiết cho mọi người được hưởng trong thực tế những lợi ích Ta mới diễn tả bằng bút mực:

Đừng để quyền tư hữu hao mòn vì phải đóng thuế nhiều và quà tặng”.

Quyền tư hữu bởi luật thiên nhiên, chớ không phải bởi luật nhân tạo lập ra. Nên chính quyền không thể nào bãi bỏ được. Chính quyền chỉ được gia giảm cách dùng quyền ấy và cho nó hòa hợp với công ích. Thành ra chính quyền đi ngược lại với chân lý và đân đạo, khi lấy cớ phải đóng thuế, mà bắt sở hữu tư nhân phải đóng quá nặng.
***​

IV. CÁC NGHIỆP ĐOÀN

36.Ảnh hưởng tốt của nghiệp đoàn trong xã hội​

Sau hết chính phủ và thợ cũng có thể góp một phần trong việc giải quyết vấn đề này nhờ các công cuộc hiệu nghiệm do họ tổ chức để nâng đỡ hạng người túng thiếu và thân thiện hóa hai giai cấp xã hội…

Trong những công cuộc đó, có những hội tương tế; có những hội đoàn tư nhân sáng lập để cứu giúp công nhân, có những bảo trợ nhi đồng nam nữ… Nhưng đứng đầu là các nghiệp đoàn bao quát đủ mọi công cuộc từ thiện có thể lập ra được. Xưa kia tổ tiên ta đã thụ hưởng phước thiện của các nghiệp đoàn ấy. Trước hết, nghiệp đoàn đem lại cho công nhân bao nhiêu phúc lợi, sau nữa có bao nhiêu thành tích chứng minh rằng nghiệp đoàn đã làm các mỹ nghệ phát triển rực rỡ và thịnh đạt.

Ngày nay lớp hậu tiến được giáo dục sâu rộng hơn, biện pháp được khai trương thêm mãi; những đòi hỏi của đời sống càng phức tạp hơn. Cho nên các nghiệp đoàn phải tổ chức lại cho thích hợp với những hoàn cảnh mới của đời sống. Ta hân hạnh thấy đâu đâu bao công đoàn được lập ra theo mục đích ấy, hoặc riêng cho công nhân, hoặc mở rộng cho cả chủ nhân tham gia vào. Mong rằng các hội đoàn ấy sẽ càng tăng thêm và hành động càng đắc lực thêm.

Vấn đề công đoàn này, biết mấy lần được Ta nêu lên. Kèm theo đây là chỉ giải thêm vài điều: Thứ nhất các công đoàn ấy cần thiết và hợp thời; thứ hai là những hội đoàn hợp pháp luật; thứ ba, cách tổ chức chương trình hành động phải như thế nào.​

37.Những hội tư có mục đích hạn hẹp​

Kinh nghiệm dạy rằng: năng lực sản xuất của con người thì có chừng hạn. Nên ai cũng thấy cần phải chung lưng đấu cật cùng anh em. Thánh Kinh lại rằng: hai người ở với nhau còn hơn mỗi người ở một mình. Ở chung với nhau thì phúc lợi biết bao nhiêu. Người này ngã thì được người kia nâng đỡ; lại câu này nữa: người được anh em nâng đỡ thì vững như một thành kiên cố. Xu hướng tự nhiên ấy là cái mầm tự nhiên nảy ra trong xã hội dân chính trước, rồi trong xã hội cứ nảy thêm các đoàn thể khác, tuy nhỏ hẹp và kém hoàn hảo, nhưng cũng là hội đoàn chính thức.

Các hội đoàn nhỏ này thì khác xã hội lớn kia, ở nhiều chỗ phụ thuộc mục đích của chúng.

Mục đích xã hội dân chính thì bao quát các công dân ý thức công ích. Mọi người có phận sự gây dựng, và từng người có quyền hưởng phần nhiều ít tùy theo tỷ lệ công tác của họ. Xã hội này gọi là “công” vì nó hợp với tất cả mọi người thành một dân nước. Trái lại, các hội đoàn được lập ra trong xã hội ấy toàn là những hội tư. Hội tư, vì mục đích trực tiếp là mưu ích riêng cho các hội viên. Một hôi tư thì được lập ra vì một mục đích tư, như khi đôi ba người chung hợp nhau để buôn bán.​

38.Quốc gia không thể cấm cản các hội tư​

Các hội tư này là thành phần của xã hội dân chính, nên chỉ tồn tại được trong xã hội ấy. Nói vậy là nói chung, nói theo tích cách riêng của chúng, nên không ai kết luận được rằng: chính phủ toàn quyền từ chối không cho thành lập.

Quyền lập hội tư là quyền tự nhiên của con người. Xã hội dân chính lại được lập ra để bảo vệ quyền tự nhiên của con người, chứ không phải để phế bỏ nó. Thành ra hễ xã hội dân chính cấm công dân không được lập hội tư, thì xã hội ấy chỉ diệt mình thôi. Vì tất cả mọi hội công và mọi hội tư đều cùng chung một nguồn gốc là tính hợp quần của nhân loại.

Quả thật, có những trường hợp buộc pháp luật phải cấm không cho lập những hội tư này: tỉ dụ như xét theo điều lệ, có những hội tư theo đuổi một mục đích trái ngược với sự minh chính, sự công bằng, hay an ninh quốc gia. Đối với những hội đó, chính phủ phải cấm không cho thành lập. Và nếu đã thành lập chính phủ có quyền giải tán. Nhưng dầu sao, chính phủ cũng phải can thiệp một cách rất khôn ngoan. Chính phủ phải tránh mọi hành động vốn vi phạm quyền lợi của các công dân, và chỉ không được lấy cớ bảo vệ công ích mà quyết định những điều trái lý.

Công dân chỉ bắt buộc phục luật khi luật ấy hợp với chính lý, và đạo vĩnh cửu của Thiên Chúa.​

39.Trường hợp các dòng tu​

Đến đây Ta phải nhắc đến những giáo đoàn hay dòng tu đủ thứ do lòng đạo đức của các tín hữu lập ra dưới quyền Giáo hội chuẩn y. Lịch sử từ xưa đến nay vẫn minh chứng các dòng tu nam nữ kia, đã rưới ra bao ân ích cho nhân loại. Cứ lẽ tự nhiên mà xét, thì các dòng tu đã được lập ra vì những mục đích đứng đắn, và do đó đã căn cứ vào luật tự nhiên. Về mặt tôn giáo, các tu viện kia chỉ thuộc về giáo quyền của Hội thánh mà thôi. Thành ra chính phủ không lẽ nào mà đòi quyền đến các dòng tu, huống chi đòi quyền quản trị. Trái lại, chính phủ có phận sự tôn trọng, bảo vệ, và nếu cần lại bênh vực nữa.

Nhưng lạ thay! Việc mới xảy ra thì lại trái ngược hết. Ở nhiều dân nước, chính phủ đã nhúng tay vào nội bộ các tu viện, và chồng chất hết sự bất công này trên sự bất công kia. Nào là bắt tu sĩ phải theo luật đời; nào là truất tư cách pháp nhân của họ, nào là tước đoạt hết tài sản. Đáng lẽ những tài sản ấy, phải được công nhận là sở hữu của Giáo hội: mọi tu sĩ có phần quyền đến lại thêm quyền của những ân nhân đã định thể thức hưởng dụng, và quyền lợi của nạn nhân được nâng đỡ bằng những tài sản ấy.

Cho nên Ta ưu sầu nhưng cũng buộc lòng phải lên án những cuộc cưỡng đoạt bất công và tai hại đó. Thật là một việc vô lý, vì đang lúc chính quyền cấm cách các giáo đoàn Kitô hữu này thì lại xác nhận các hội tư kia là hợp pháp. Quyền mà họ không chịu ban cho những người thuận hòa, chỉ sống vì ích lợi chung, sao họ lại rộng rãi nhường cho bao người mưu toan làm hại cho cả tôn giáo lẫn quốc gia?​

40.Công nhân Kitô hữu khó chọn lựa trước một số hội đoàn​

Quả thực, suốt trong lịch sử nhân loại chưa có đời nào các hội tư được thành lập nhiều và đủ mọi mục đích, nhất là nghiệp đoàn, bằng đời ta bây giờ. Ở đây, ta không cần tìm cho ra các hội đoàn ấy bởi đâu mà có, mục đích là gì và thường theo đuổi mục đích bằng cách nào. Nhưng đây là một dư luận: – một dư luận không thiếu chứng cớ – các hội đoàn ấy được chỉ huy ngấm ngầm cho những người cùng một lệnh kín, ngược lại với danh nghĩa Kitô hữu, và gây bao nguy hại đến an ninh quốc tế. Các hội đoàn ấy đã chiếm đoạt được mọi xí nghiệp rồi, thì hễ công nhân nào từ chối không chịu gia nhập, thì công nhân ấy phải sống túng cực, để đền tội ngỗ nghịch ấy. Trong trường hợp đó, công nhân công giáo chỉ hai đường lối, mà lại bắt buộc chọn lấy một: một là nhập vào những hội đoàn ấy, là mối nguy hiểm lớn cho đức tin của họ; hai là tổ chức những hội đoàn riêng, để cùng nhau góp sức và mạnh bạo trút ách bất công kia không ai chịu được.

Thật không ai là người tận tâm cương quyết cứu đỡ công ích tối cao của nhân loại khỏi tai nạn kinh khủng ấy, mà còn hồ nghi được, họ phải chọn đường thứ hai.​

41.Những công đoàn công giáo​

Bởi vậy, Ta phải cất tiếng ca tụng lòng nhiệt thành của một số đông Kitô hữu ấy đã ý thức những đòi hỏi của thời cuộc, mà lại dò dắt tình thế kỹ lưỡng, để tìm ra một con đường chính đáng, mà đưa giai cấp lao động đến một trình độ cao hơn. Họ đã đứng dậy để bênh vực giai cấp lao động. Họ tìm trăm ngàn phương cách để nâng cao sự thịnh đạt cá nhân và gia đình của công nhân. Họ tìm phương liệu kế quy định cho đúng phép công bằng những mối liên lạc giữa chủ và thợ. Họ không ngừng nhắc nhở và củng cố đôi bên tuân giữ phận sự và đạo phúc âm, toàn là những điều luật giúp con người bác bỏ những sự quá khích, tập cho con người sống điều độ lại, suy trì sự hòa thuận giữa các dân nước được êm thấm. Nương theo lý tưởng ấy, thì bao nhiêu người tài đức lỗi lạc hay tổ chức những hội nghị cho họ tiện dịp trao đổi ý kiến, chung sức góp lực và ấn định những chương trình hành động rất hợp thời. Còn bao nhiêu người khác thì đua nhau lập ra những công đoàn theo từng ngành chuyên nghiệp để quy tụ các công nhân. Họ lại giúp lời chỉ giáo, giúp tài chính và tính liệu cho các bạn đồng nghệ luôn luôn có công ăn việc làm, hẳn hoi hiệu lực.

Các giám mục về mặt khác, thì không ngừng khuyến khích và đem uy quyền bảo trợ những hành động ấy. Nhận lệnh giám mục và dưới quyền che chở của giáo phẩm, cũng có những linh mục, hoặc ở bậc tu trì, hoặc ở bậc triều cũng tận tâm hiệp lực, để cấp đủ sự cần phần hồn cho các đoàn viên.

Sau hết, thì không thiếu những hạng người Công giáo có tiền ức bạc triệu, đã tự ý kết nghĩa bạn vè với các công nhân và không quản tổn hao, để thành lập khuếch trương các công đoàn ở khắp đó đây. Công nhân nhờ đó mà hưởng phần sung túc ngay từ bây giờ, và đến khi họ lão thành thì họ được hy vọng an nghỉ xứng đáng.

Những hành động đủ mọi mục đích và rất phấn khởi này đã thực hiện giữa các dân tộc, những phúc lợi vĩ đại ai cũng biết đến, nên ta không cần dài lời đi sâu vào từng chi tiết. Đối với ta, đó là việc tiên báo cho thế giới một tương lai rực rỡ. Ta hy vọng ác nghiệp đoàn kia cứ tuần tự phát triển trong sự khôn ngoan cần thiết cho mọi tổ chức nhân tạo, sẽ kết quả rất tốt đẹp. Mong chính quyền luôn luôn bảo vệ những tổ chức hợp pháp này mà không bao giờ nhúng tay vào việc nội trị của chúng, và không bao giờ động đến những động lực mật thiết là lẽ sống của chúng.

Sự sống cốt ở một nội lực phát ra, mà lại dễ tiêu đi, khi gặp phải những ngoại hưởng bất hợp.​

42.Tổ chức nghiệp đoàn​

Lẽ dĩ nhiên nghiệp đoàn phải có tổ chức và kỹ thuật, vừa khôn ngoan vừa cẩn trọng thì hành động mới duy nhất, nhân viên mới đồng tâm nhất trí. Vậy nếu ta nhận thức rằng: công dân tự do hội họp, ắt công dân tự do đặt ra cho hội đoàn của họ những điều lệ và những quy định hợp với mục đích họ quyết theo đuổi. Ta thiết tưởng rằng: Ta khó an định những phương thức rõ ràng và chắc chắn về những điều lệ và những quy định đó. Mọi sự đều tùy thuộc đặc tính của từng dân, từng nước; tùy theo những điều thí nghiệm và lịch lãm; tùy theo mọi công việc; tùy theo thương mại khuếch trương nhiều hay ít; và cũng còn tùy theo thời thế hoàn cảnh nữa. Toàn là những điều cần thiết phải xét kỹ.

Đại cương chỉ nói được rằng: mực thước chung và bền vững ai cũng phải tuân theo, là mỗi nghiệp đoàn phải được tổ chức và chỉ huy làm sao cho các nhân viên tìm đủ phương tiện cần thiết để bước tới mục đích họ theo đuổi một cách mau chóng và dễ dàng hơn cả. Mục đích ấy là cho mỗi người thêm phúc lợi hồn xác và tăng gia sản xuất chừng nào hay chừng ấy.

Nhưng lẽ cố nhiên mục đích đầu tiên ai cũng phải nhắm tới là cải thiện đời sống nhân viên. Về mặt luân thường đạo hạnh. Mục tiêu này là quy tắc căn bản của nền kinh tế xã hội. Khinh thường điều ấy, thì các nghiệp đoàn kia không chóng thì chày sẽ suy đồi, và xuống cùng một hàng với các hội hè vô tôn giáo. Quả thực công đoàn cho các nhân viên sung mãn về vật chất mà lại thiếu lương thực phần hồn, thì nào có ích gì cho thợ thuyền hằng liều mình mất linh hồn.

Khôi phục cả thiên hạ mà mất linh hồn nào có ích gì! Theo Chúa Kitô ta phải đặt điểm này phân rõ Kitô hữu và tha dân: tha dân thì tham của phàm trần, còn anh em thì hãy tìm nước Chúa, còn mọi sự khác thì sẽ được ban thêm dư dật.

Vậy đã lấy lòng tin ở Chúa làm khởi điểm, ta phải dành phần chính chương trình cho việc học đạo lý, để cho ai nấy hiểu rõ phận sự của mình đối với Chúa. Những điều phải tin, những điều phải trông cậy, toàn là những điều phải dạy cho công dân rất kỹ lưỡng. Phải săn sóc họ một cách rất đặc biệt cho họ khỏi nhiễm các tà thuyết và tật xấu. Ta hãy lo cho công nhân thành thật kính thờ Chúa. Luôn luôn đề cao lòng đạo đức và nhất là trung thành giữ ngày Chúa nhật và các ngày lễ trọng. Mong công nhân tôn kính và mến phục Hội thánh là thân mẫu chung của các Kitô hữu; mong họ tuân giữ luật Giáo hội, năng chịu các Phép bí tích là những nguồn mạch thiên hiệu, cho họ rửa sạch mọi vết nhơ và được thánh hóa nữa.

43.Chương trình hành động của nghiệp đoàn​

Khi đã đặt tôn giáo làm nền tảng luật pháp xã hội thì ta rất dễ dàng ấn định những mối tương quan cần thiết cho các nhân viên luôn luôn hòa thuận và thịnh đạt trong xã hội.

Phận vụ thì khác nhau, nhưng phải phân phối thế nào cho thuận tiện để mưu ích chung, và liệu cho khỏi sự chênh lệch hại đến sự “đồng tâm nhất trí” của mọi tầng lớp xã hội. Việc tối cần là phân công cho sáng suốt, phân minh kẻo có người phải chịu sự bất công. Phần của chung phải quản trị cho thanh liêm, phần lương trợ cấp cho mọi người lại phải tiền định tùy theo công nghiệp và tài trí của từng người.

Quyền lợi và phận sự của chủ nhân cũng phải được dung hòa hoàn toàn với quyền lợi và bổn phận của công nhân. Trong những trường hợp chủ nhân hay công nhân bị thiệt hại nào, thì ta mong điều lệ công hội có khoản ủy thác cho các nhân viên khôn ngoan và liêm chính hơn cả, lấy tư cách trọng tài mà phân xử điều xích mích.

Lại phải tiên liệu làm sao cho công nhân không bao giờ thiếu việc làm, và lập sẵn một phần vốn tích trữ, để đề phòng khỏi những tai nạn bất ngờ thường xảy ra trong xí nghiệp đã đành mà còn phải đề phòng khi bệnh tật, tuổi già và những khi thất cơ lỡ vận. Thi hành những luật lệ kể trên, nếu người ta thật lòng thì cũng đủ cho hạng người nghèo hèn ấm no và thư thái đôi phần.

Nhưng các nghiệp đoàn Công giáo còn có thể góp phần rất quan trọng vào nền thịnh vượng chung. Xét quá khứ và phỏng đoán tương lai, không phải là táo bạo đâu. Đời này thay thế cho đời kia, nhưng mọi sự xảy ra cùng giống nhau lạ lùng. Chúa quan phòng xếp đặt mọi việc để cho loài người luôn luôn hướng về cứu cánh đã tiền định ngay trong lúc tạo thiên lập địa.

Thời kỳ Giáo hội mới phôi thai, người ta hay tố cáo giáo dân tiên khởi, toàn là những kẻ bần cùng, chỉ sống nhờ của bố thí hay lao công vất vả. Dầu sao bổn đạo thời kỳ đó thiếu thốn, không quyền thế nào, họ cũng khiến được kẻ giàu người sang thông cảm thân phận họ. Ai cũng cảm phục các Kitô hữu siêng năng, cần mẫn, thuận hòa, nêu gương công bằng và nhất là bác ái. Trước cảnh đời sống trọn lành, những phong tục thuần mỹ như thế, mọi thành kiến đều biến tan; tiếng nhạo cười im phắc, tín ngưỡng dị đoan mê ảo dầu đã lâu đời bao nhiêu cũng lần lượt điêu tàn, trước những lẽ chân thực của đạo Chúa Kitô.​

44.Lợi ích của công đoàn cho toàn xã hội​

Vấn đề lao động ngày nay sôi nổi. Không biết lý trí tự nhiên có giải quyết được hay không? Giải pháp người ta sẽ ứng dụng sẽ gây ảnh hưởng rất quan trọng đến vận quốc. Những vấn đề lao động rất có thể nhờ công nhân Kitô hữu giải quyết dễ dàng và hợp lý được. Họ chỉ cần họp thành những đoàn thể linh động và được chỉ huy rất khôn ngoan rồi nhịp bước theo đường tổ tiên đã theo từ trước mà tìm cứu rỗi cho mình và cho các dân tộc.

Dầu người ta thành kiến nhiều, bị dục vọng lôi cuốn, thì bao giờ lòng công bình và chân thành cũng không bị những ý định quỷ quái dập tắt hẳn, và không kíp thì chày họ sẽ đồng lòng cảm phục yêu quý những đoàn thể lao động kia, là những đoàn người chuyên cần và khiêm tốn, đặt công chính trên tư lợi và trọng kính nghĩa vụ trên hết mọi sự. Nhờ đó, thế giới sẽ lại hưởng một đặc ân khác nữa. Những công nhân hiện đang khinh đạo thánh Chúa, hay đang trôi theo những tục lệ mà đạo thánh Chúa bài xích thì sẽ hồi tâm lại mà hy vọng thân phận của họ có thể đổi mới được.

Sự thường họ ý thức ngay không cần suy nghĩ lâu ngày lâu tháng, họ đã bị đánh lừa bằng những lời hứa hão huyền và những tổ chức bề ngoài dối trá. Theo cách cư xử của những chủ bất nhân ham lợi tham của, thì họ hiểu ngay mình chỉ được quý trọng tùy theo năng lực mưu ích gây lợi cho chủ. Còn cho các hội đoàn đã lung lạc rũ họ nhập vào, họ chẳng thấy đâu là nghĩa bác ái, là tình yêu. Trái lại họ chỉ gặp sự bất hòa, kình địch nhau là sự thường hay xảy ra, trong giới khổ cực, ngạo mạn và vô thần. Tâm hồn chán nản thể xác kiệt quệ ai lại không mong cởi ách tủi nhục ấy. Nhưng họ cũng không dám hoặc vì tự ái hoặc sợ túng thiếu.

Vậy, đối với những công nhân ấy, những nghiệp đoàn Công giáo sẽ là một phương tiện hữu ích bất ngờ. Thấy họ ngần ngại thì các nghiệp đoàn ấy cần niềm nở đón tiếp họ và thành thực bênh vực che chở họ.
***​

V. LỜI KHÍCH LỆ CUỐI CÙNG

45.Để tái lập những phong tục Kitô giáo​

Vậy chắc anh em đã được thấy rõ vấn đề khắt khe này cần phải bàn tán và giải quyết thế nào. Mong người nào có phận nấy, sẽ kíp bắt tay vào việc kẻo vì chậm thuốc mà cơn bệnh đã quá trầm trọng rồi, khó mà thuyên giảm được.

Yêu cầu các nhà chính trị, dùng quyền pháp luật và cơ cấu xã hội mà bảo vệ công nhân.

Yêu cầu các kẻ giàu và các chủ nhân tỉnh thức lại với phận sự. Yêu cầu các công nhân ý thức số phận nguy cấp của họ mà tiếp tục đòi quyền lợi của họ theo đường ngay và nẻo chính.

Theo lời Ta tuyên bố ngay từ đầu: chỉ có đạo thánh Chúa mới trừ diệt tật nạn từ tận gốc. Vậy ai cũng phải thú nhận rằng điều cần thiết nhất ta phải thực hiện ngay là phục hưng phong hóa Kitô hữu trong đời sống. Thiếu điều kiện này, dầu những phương tiện hiệu nghiệm nhất do trí thông minh người phàm bày vẽ được cũng sẽ khó đưa lại những kết quả hữu ích.

Còn Giáo hội sẽ không bao giờ ngừng hành động tùy theo tài lực. Những hành động ấy càng được tự do khuếch trương thì càng chắc hiệu lực nhiều.

Điều Ta mong nhất là tất cả những ai có phần trách nhiệm đến công ích sẽ hiểu rõ điều này. Mong hàng giáo phẩm tận tâm hiệp lực và dùng đủ mọi phương tiện họ nhiệt thành nghĩ ra được, để tuân theo huấn thị và gương tốt của anh em mà tái huấn mọi giai cấp xã hội, cho thích hợp với luật Phúc âm về đời sống Công giáo.

Chớ gì các giáo sĩ, theo quyền hạn mình mà nỗ lực cứu dân độ thế, nhất là chăm chú vun trồng trong chính mình họ và làm trổ sinh nơi các kẻ khác, bất phân kẻ sang người hèn, đức bác ái của Phúc âm là nhân đức chỉ huy và làm nảy sinh các nhân đức khác.

Quả thực muốn cứu giúp các dân tộc, cần nhất là làm cho đức bác ái lan tràn thiên hạ. Ta nhấn mạnh vào điều đó. Đức bác ái của đạo thánh Chúa gồm tóm cả Phúc âm, và luôn luôn khiến người sẵn sàng hy sinh để cứu giúp anh em đồng loại.

Nhân đức này là môn thuốc hiệu nghiệm để trị tính kiêu hãnh của người đời và diệt trừ lòng tự ái quá độ. Chính là nhân đức mà thánh Phaolô diễn tả thiên vụ và tính cách siêu nhiên rằng: đức bác ái thì kiên nhẫn, hòa nhã, không tìm tư lợi. Đức bác ái chịu mọi sự đau khổ và chịu đựng mọi căm hờn.

Để bảo đảm ân huệ Chúa sẽ ban dồi dào, và tỏ lòng nhân ái, Ta hận hạnh ban phép lành Tòa Thánh cho toàn thể anh em giáo sĩ và tín hữu trong Chúa

Ban bố tại La Mã
Cạnh Đền thờ thánh Phêrô, ngày 15 tháng 05 năm 1891


+ Lê-ô XIII Giáo Hoàng
 

[LIVE] Thánh Lễ của Đức Tân Giáo Hoàng Lêô XIV với các Hồng Y – Thứ Sáu 9/5 - PHAILAMGI.COM - Vào lúc 11:00 giờ Roma (tức 16:00 giờ Việt Nam) ngày thứ Sáu 9/5/2025, Đức Tân Giáo Hoàng Lêô XIV sẽ chủ sự Thánh lễ đầu tiên với các Hồng Y tại Nhà nguyện Sistine - Đây là một nghi lễ mang tính biểu tượng sâu sắc, đánh dấu khởi đầu chính thức của triều đại mới. Trong Thánh lễ này, Đức Thánh Cha sẽ cùng các Hồng Y hiệp thông cầu nguyện cho sứ vụ lãnh đạo Hội Thánh hoàn vũ mà Ngài vừa được trao phó.

0 lượt xem

Bài viết chờ bạn bình luận

Bên trên