Behold God’s Providence
- Tham gia
- 17/12/23
- Bài viết
- 1,192
- Chủ đề Author
- #1
Nói sự thật là điều đáng quý, nhưng như thế vẫn chưa đủ. Cần phải yêu mến sự thật để có thể thấu hiểu và truyền đạt nó. Suy tư này càng trở nên ý nghĩa khi một trong những đề thi triết học tú tài Pháp năm 2025 đặt vấn đề: "Liệu sự thật có luôn thuyết phục?".
“Suốt đời tôi từng gặp nhiều kẻ muốn lừa dối, nhưng chưa từng thấy ai chấp nhận bị lừa” (Thánh Augustinô, X, 23). Quả đúng vậy: chúng ta yêu sự thật khi mình là người được hưởng lợi từ nó. Ngược lại, khi phải công bố sự thật trong một môi trường thù nghịch hoặc thờ ơ, khi phải thú nhận điều khiến ta bối rối, hay khi muốn thoát khỏi tình huống khó xử bằng những thỏa hiệp nhỏ nhoi, thì lòng yêu mến sự thật của ta thường dao động. Có nhiều người trong chúng ta sợ phải nói ra sự thật – đến mức nói dối với cả người mình yêu thương – dù bản thân lại chẳng ai muốn bị lừa dối hay phản bội.
Tiêu chuẩn của sự thật
Nghịch lý thay, chính nhu cầu khao khát sự thật ấy lại khiến chúng ta thấy âm mưu ở khắp nơi – kể cả những điều phi lý nhất. Cũng chính cơn khát sự thật ấy khiến ta trở nên khó chịu với người thân, khi bắt bẻ họ vì một lỗi ngữ pháp, một câu nói hớ, hay một từ dùng sai… Có lẽ, chúng ta thực sự chưa hiểu rõ mình đang yêu điều gì khi khẳng định rằng mình khao khát sự thật. Và nếu bị yêu cầu giải thích, có lẽ ta cũng sẽ lúng túng khi phải định nghĩa điều mà ta gọi là “sự thật”.
Bởi vì yêu sự thật không chỉ là mong muốn nói ra sự thật. Đó là hành trình tìm kiếm, bằng cả trái tim, điều thiện hảo và vẻ đẹp nơi mỗi con người.
Thánh Tôma Aquinô, trong Tổng luận Thần học, tiếp nối triết lý của Aristote, đã định nghĩa sự thật là “sự tương hợp giữa trí tuệ và thực tại”. Ai cũng có thể hiểu điều này. Nếu tôi bịa ra một câu chuyện phi lý để kể về kỳ nghỉ, hay phóng đại các con số do mình tưởng tượng ra nhằm thuyết phục cử tri, thì chính tôi là người đầu tiên biết rằng thực tại khác xa điều mình đang nói. Tôi đã tạo ra một vùng xám mập mờ… và ai tin tôi thì đều lạc hướng. Thực tại – đó mới là tiêu chuẩn tối hậu của sự thật.
Bởi vì yêu sự thật không chỉ là mong muốn nói ra sự thật. Đó là hành trình tìm kiếm, bằng cả trái tim, điều thiện hảo và vẻ đẹp nơi mỗi con người.
Thánh Tôma Aquinô, trong Tổng luận Thần học, tiếp nối triết lý của Aristote, đã định nghĩa sự thật là “sự tương hợp giữa trí tuệ và thực tại”. Ai cũng có thể hiểu điều này. Nếu tôi bịa ra một câu chuyện phi lý để kể về kỳ nghỉ, hay phóng đại các con số do mình tưởng tượng ra nhằm thuyết phục cử tri, thì chính tôi là người đầu tiên biết rằng thực tại khác xa điều mình đang nói. Tôi đã tạo ra một vùng xám mập mờ… và ai tin tôi thì đều lạc hướng. Thực tại – đó mới là tiêu chuẩn tối hậu của sự thật.
Lòng nhân hậu của trái tim
Tuy nhiên, “sự tương hợp của trí tuệ” ấy lại phong phú và sâu sắc hơn ta tưởng. Nói sự thật không có nghĩa là mô tả thực tại một cách khô khan, lạnh lùng hay phũ phàng. Vì trí tuệ con người không phải là một cỗ máy vô cảm và cắt khúc. Bởi yêu sự thật không chỉ là muốn nói ra nó, mà còn là thao thức kiếm tìm điều tốt đẹp nơi tha nhân. Đó còn là mở rộng tâm hồn để chiêm ngắm thế giới – như thể đang lần ngược dòng sông về tận nguồn cội: Tại sao thế giới này lại đẹp đến thế? Vì sao nó lại bị tổn thương? Và tại sao nó lại được trao ban cho ta trong sự bao la mênh mông như vậy?
Vì lẽ đó, Thánh vịnh ngợi ca những ai “sống trong sự thật”, “bước đi trong chân lý”. Trí tuệ đích thực chính là một tấm lòng nhân hậu: biết nhận ra, bằng trực giác đầy cảm thông, điều người khác thực sự muốn nói dù họ diễn đạt vụng về; hay điều họ định làm dù đã vấp ngã. Một trí tuệ như thế không hề thụ động, mà sâu sắc, nhạy bén và đầy khát vọng – sẵn sàng nỗ lực và chan chứa tình yêu. Đó là tiếng nói vang lên từ nội tâm: “Tôi hiểu rồi”, “Tôi hiểu bạn”.
Vì lẽ đó, Thánh vịnh ngợi ca những ai “sống trong sự thật”, “bước đi trong chân lý”. Trí tuệ đích thực chính là một tấm lòng nhân hậu: biết nhận ra, bằng trực giác đầy cảm thông, điều người khác thực sự muốn nói dù họ diễn đạt vụng về; hay điều họ định làm dù đã vấp ngã. Một trí tuệ như thế không hề thụ động, mà sâu sắc, nhạy bén và đầy khát vọng – sẵn sàng nỗ lực và chan chứa tình yêu. Đó là tiếng nói vang lên từ nội tâm: “Tôi hiểu rồi”, “Tôi hiểu bạn”.
Dưỡng khí cho linh hồn
Vì vậy, hãy đừng xem sự thật như một khái niệm trừu tượng lơ lửng tận đâu đó, mà hãy nhìn nó như một “nhu cầu thiết yếu của linh hồn” – như nữ triết gia Simone Weil từng viết. Nước uống, miếng bánh, ánh sáng và không khí – tất cả đều là hình ảnh cho sự thật. Khi ta bị ngăn cản không được hiểu biết, là ta đang thiếu hụt mọi thứ. Con người là hữu thể được tạo dựng để khao khát chân lý. Vì thế, những ai tưởng rằng che giấu hay ngụy trang sẽ giúp bảo vệ mình hoặc người khác khỏi tổn thương – thì thật ra chỉ đang làm vấn đề thêm mù mờ, khiến mọi người càng lạc lối.
Tóm lại, tình yêu không có sự thật sẽ trở nên lạc hướng, còn sự thật không có tình yêu thì khô cằn. Lời cầu nguyện của thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu Êphêsô (Ep 1, 17–18) đã nói thật chính xác: “Nguyện xin Thiên Chúa soi sáng đôi mắt tâm hồn anh em!”
Tóm lại, tình yêu không có sự thật sẽ trở nên lạc hướng, còn sự thật không có tình yêu thì khô cằn. Lời cầu nguyện của thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu Êphêsô (Ep 1, 17–18) đã nói thật chính xác: “Nguyện xin Thiên Chúa soi sáng đôi mắt tâm hồn anh em!”
- Ảnh trong bài: Canva
Phải làm gì?
Docat 107: Tại sao ta cần sự thật trong đời sống xã hội?
Sự thật, được chuyển dịch vào đời sống cá nhân của tôi, chính là tính thành thật và lòng trung thực nơi tôi. Nếu người ta không cư xử chân thành với nhau, xã hội nào cũng tan rã. Khi việc làm không còn đi đôi với lời nói, và khi chúng ta không còn có thể tin chắc rằng những người khác thành thật với mình, thì thái độ ngờ vực, lạnh lùng, và xảo quyệt sẽ định dạng cách con người chung sống với nhau. Một thành tố khác của sự thật trong lĩnh vực kinh tế-chính trị là tính minh bạch, cả trong những quyết định lẫn trong hành động. Điều này đặc biệt đúng khi liên quan tới vấn đề sử dụng những nguồn lực tài chính.
Cùng chủ đề