Behold God’s Providence
- Tham gia
- 17/12/23
- Bài viết
- 1,097
- Chủ đề Author
- #1
Tránh thai nhân tạo là phương pháp phổ biến hiện nay để các cặp vợ chồng tránh việc mang thai ngoài ý muốn. Tuy nhiên, giáo hội Công giáo luôn khẳng định lập trường, các phương pháp ngừa thai nhân tạo là hành vi xấu tự thân và bị ngăn cấm.
Ảnh: superdoc.mx
Hành vi xấu tự thân là những hành vi về bản chất vốn là sai trái, không phù hợp với đạo đức, luân lý và luôn là hành vi phi luân khi thực hiện. Ví dụ như, hành vi giết người, ngoại tình, ăn cắp,…và ngừa thai nhân tạo cũng được xếp vào nhóm hành vi xấu tự thân, do tính chất phi nhân đạo, ngăn cản sự sống.
Theo nhiều khảo sát, thực trạng cho thấy, thế hệ trẻ ngày càng phát sinh quan hệ tình dục sớm. Trong đó, tỉ lệ nữ giới có hành vi quan hệ trước hôn nhân lên tới 77% trong độ tuổi thanh thiếu niên. Điều này có thể tới từ ảnh hưởng của văn hóa phương tây, lối sống buông thả tử một bộ phận thanh thiếu niên.
Việc quan hệ tình dục sớm bắt buộc các thanh thiếu niên phải sử dụng các phương pháp tránh thai nhân tạo để tránh việc có con khi còn quá trẻ. Một số phương pháp có thể kể đến như, sử dụng bao cao su, màng ngăn âm đạo, vòng tránh thai,…
Về mặt bản chất, các phương pháp ngừa thai nhân tạo chính là sự ngăn cản sự kết hợp của trứng trước, trong hoặc sau khi giao hợp. Trong đó, họ sẽ sử dụng bất cứ dụng cụ hoặc thuốc sử dụng trong ngừa thai, nguy hiểm hơn là hành vi thay đổi môi trường tử cung, làm cho trứng đã thụ tinh không có chỗ bám, dẫn đến hủy bỏ.
Một phương pháp ngừa thai nhân tạo phi nhân tính được sử dụng phổ biến hiện nay chính là đặt vòng tránh thai. Bác sĩ sẽ đặt vòng hoặc cấy que vào trong tử cung hoặc dưới da để làm thay đổi môi trường trong tử cung người phụ nữ, ngăn chặn sự thụ tinh hoặc nằm thai.
Thực chất, đây là hành vi phá thai non. Trứng và tinh trùng đã gặp nhau và tạo thành hợp tử, mà hợp tử thì đã được coi là một con người hoàn chỉnh. Việc đặt các dụng cụ kể trên đã khiến cho hợp tử không thể tồn tại trong tử cung người phụ nữ. Cho nên, không thể nói đây là phương pháp ngừa thai, mà phải nói đây là hành vi phá thai.
Giáo hội Công giáo khẳng định về lập trường của mình về vấn đề ngừa thai nhân tạo từ rất sớm, được đề cập trong các văn kiện chính thức vào thế kỷ XX.
Trong thông điệp Casi Connubii của Đức Piô XI, nêu rõ hai mục đích của việc giao hợp. Một là phải nhắm đến việc có con, đây là mục đích chính, bên cạnh đó là chăm sóc tình yêu đôi lứa và trợ giúp lẫn nhau. Hai là việc làm dịu cơn khát xác thịt mà chồng và vợ không bị cấm đoán đến bao lâu họ vẫn tuân thủ mục đích chính và bao lâu mà bản chất nội tại của hành vi đó vẫn được giữ gìn vẹn toàn.
Năm 1965, khi Đức Piô XII ngỏ lời với hiệp hội những cô đỡ công giáo Ý, ngài đã công bố cách thức và cho phép thực hành kiêng cữ định kỳ, tránh việc giao hợp với nhau khi người nữ có thể thụ thai.
Khi giáo hội công bố Hiến chế mục vụ về Giáo hội trong thế giới ngày nay vào năm 1965, một điểm quan trọng được lưu ý, việc ăn ở với nhau nhằm diễn tả tình yêu vợ chồng được xem như một giá trị thiết yếu nhưng lại độc lập với việc sinh con. Tuy nhiên, tình yêu vợ chồng không tách rời khỏi bổn phận truyền sinh cũng như việc giáo dục con cái . Các nghị phụ Công đồng khuyến khích vợ chồng thực tập đức trong sạch hôn nhân, vốn phần nào đó có nghĩa là trong khi nhằm hạn chế sinh sản, vợ chồng cần tránh các phương pháp “bị Huấn quyền Giáo Hội cho là sai trái vì không phù hợp với lề luật Thiên Chúa”.
Đặc biệt, trong Thông điệp Humanae Vitae (Sự sống con người) của Đức Phao-lô VI năm 1968 tái khẳng định một lần nữa, không chấp nhận việc điều hòa sinh sản bằng cách trực tiếp ngăn chặn sự diễn biển đã khởi sự một mầm sống. Chúng ta cũng không có quyền chấp nhận bất cứ một hành vi nào có mục đích hay dùng làm phương tiện để ngăn chặn việc sinh sản, hoặc trước khi hoặc đang khi làm hành vi hôn nhân, hoặc làm trở ngại việc diễn tiếp tự nhiên của hành vi ấy. Giáo hội lên án gay gắt và ngăn cấm sử dụng.
Lập trường của Giáo hội nhằm mục đích kiên quyết bảo vệ tuyệt đối sự sống của con người, dù sự sống mới được bắt đầu qua việc thụ thai. Cần phải ngăn cấm hoàn toàn các hành vi ngừa thai nhân tạo, vì bản chất đó là một hành vi tự thân xấu, phi đạo đức, đi ngược lại với luật luân lý tự nhiên đối với sự hưởng dùng tình dục.
Giáo hội khuyến khích các cặp vợ chồng sử dụng các phương pháp tránh thai tự nhiên như dựa vào chu kỳ kinh nguyệt, thời gian rụng trứng, hoặc cho con bú để xác định những ngày an toàn, không thể thụ thai để quan hệ tình dục. Đây là phương pháp không mang tác dụng phụ, hợp luân lý, và tôn trọng sự sống con người.
Theo nhiều khảo sát, thực trạng cho thấy, thế hệ trẻ ngày càng phát sinh quan hệ tình dục sớm. Trong đó, tỉ lệ nữ giới có hành vi quan hệ trước hôn nhân lên tới 77% trong độ tuổi thanh thiếu niên. Điều này có thể tới từ ảnh hưởng của văn hóa phương tây, lối sống buông thả tử một bộ phận thanh thiếu niên.
Việc quan hệ tình dục sớm bắt buộc các thanh thiếu niên phải sử dụng các phương pháp tránh thai nhân tạo để tránh việc có con khi còn quá trẻ. Một số phương pháp có thể kể đến như, sử dụng bao cao su, màng ngăn âm đạo, vòng tránh thai,…
Về mặt bản chất, các phương pháp ngừa thai nhân tạo chính là sự ngăn cản sự kết hợp của trứng trước, trong hoặc sau khi giao hợp. Trong đó, họ sẽ sử dụng bất cứ dụng cụ hoặc thuốc sử dụng trong ngừa thai, nguy hiểm hơn là hành vi thay đổi môi trường tử cung, làm cho trứng đã thụ tinh không có chỗ bám, dẫn đến hủy bỏ.
Một phương pháp ngừa thai nhân tạo phi nhân tính được sử dụng phổ biến hiện nay chính là đặt vòng tránh thai. Bác sĩ sẽ đặt vòng hoặc cấy que vào trong tử cung hoặc dưới da để làm thay đổi môi trường trong tử cung người phụ nữ, ngăn chặn sự thụ tinh hoặc nằm thai.
Thực chất, đây là hành vi phá thai non. Trứng và tinh trùng đã gặp nhau và tạo thành hợp tử, mà hợp tử thì đã được coi là một con người hoàn chỉnh. Việc đặt các dụng cụ kể trên đã khiến cho hợp tử không thể tồn tại trong tử cung người phụ nữ. Cho nên, không thể nói đây là phương pháp ngừa thai, mà phải nói đây là hành vi phá thai.
Giáo hội Công giáo khẳng định về lập trường của mình về vấn đề ngừa thai nhân tạo từ rất sớm, được đề cập trong các văn kiện chính thức vào thế kỷ XX.
Trong thông điệp Casi Connubii của Đức Piô XI, nêu rõ hai mục đích của việc giao hợp. Một là phải nhắm đến việc có con, đây là mục đích chính, bên cạnh đó là chăm sóc tình yêu đôi lứa và trợ giúp lẫn nhau. Hai là việc làm dịu cơn khát xác thịt mà chồng và vợ không bị cấm đoán đến bao lâu họ vẫn tuân thủ mục đích chính và bao lâu mà bản chất nội tại của hành vi đó vẫn được giữ gìn vẹn toàn.
Năm 1965, khi Đức Piô XII ngỏ lời với hiệp hội những cô đỡ công giáo Ý, ngài đã công bố cách thức và cho phép thực hành kiêng cữ định kỳ, tránh việc giao hợp với nhau khi người nữ có thể thụ thai.
Khi giáo hội công bố Hiến chế mục vụ về Giáo hội trong thế giới ngày nay vào năm 1965, một điểm quan trọng được lưu ý, việc ăn ở với nhau nhằm diễn tả tình yêu vợ chồng được xem như một giá trị thiết yếu nhưng lại độc lập với việc sinh con. Tuy nhiên, tình yêu vợ chồng không tách rời khỏi bổn phận truyền sinh cũng như việc giáo dục con cái . Các nghị phụ Công đồng khuyến khích vợ chồng thực tập đức trong sạch hôn nhân, vốn phần nào đó có nghĩa là trong khi nhằm hạn chế sinh sản, vợ chồng cần tránh các phương pháp “bị Huấn quyền Giáo Hội cho là sai trái vì không phù hợp với lề luật Thiên Chúa”.
Đặc biệt, trong Thông điệp Humanae Vitae (Sự sống con người) của Đức Phao-lô VI năm 1968 tái khẳng định một lần nữa, không chấp nhận việc điều hòa sinh sản bằng cách trực tiếp ngăn chặn sự diễn biển đã khởi sự một mầm sống. Chúng ta cũng không có quyền chấp nhận bất cứ một hành vi nào có mục đích hay dùng làm phương tiện để ngăn chặn việc sinh sản, hoặc trước khi hoặc đang khi làm hành vi hôn nhân, hoặc làm trở ngại việc diễn tiếp tự nhiên của hành vi ấy. Giáo hội lên án gay gắt và ngăn cấm sử dụng.
Lập trường của Giáo hội nhằm mục đích kiên quyết bảo vệ tuyệt đối sự sống của con người, dù sự sống mới được bắt đầu qua việc thụ thai. Cần phải ngăn cấm hoàn toàn các hành vi ngừa thai nhân tạo, vì bản chất đó là một hành vi tự thân xấu, phi đạo đức, đi ngược lại với luật luân lý tự nhiên đối với sự hưởng dùng tình dục.
Giáo hội khuyến khích các cặp vợ chồng sử dụng các phương pháp tránh thai tự nhiên như dựa vào chu kỳ kinh nguyệt, thời gian rụng trứng, hoặc cho con bú để xác định những ngày an toàn, không thể thụ thai để quan hệ tình dục. Đây là phương pháp không mang tác dụng phụ, hợp luân lý, và tôn trọng sự sống con người.
Chỉnh sửa lần cuối: