Behold God’s Providence
- Tham gia
- 17/12/23
- Bài viết
- 517
- Chủ đề Author
- #1
Việt Nam và một số nước hiện nay trên thế giới đã thông qua luật hoặc có những dự thảo luật cho phép phá thai để bảo vệ quyền lựa chọn, sức khỏe của phụ nữ. Tuy nhiên, đây là hành vi gián tiếp cướp đi mạng sống của hơn 300.000 sinh linh mỗi năm tại Việt Nam.
Dự thảo Luật Dân số đề xuất cho phép phá thai theo nguyện vọng nếu tuổi thai dưới 12 tuần tuổi, trừ trường hợp phá thai để lựa chọn giới tính, phá thai gây hậu quả nghiêm trọng cho sức khỏe phụ nữ. Ngoài ra, phụ nữ được phá thai do loạn luân, do bị hiếp dâm nếu tuổi thai từ 12 tuần trở lên.
Một số nước Châu Âu cũng cho phép phá thai khi thai nhi chưa quá 12 tuần tuổi. Riêng ở Bỉ, nếu phụ nữ cảm thấy căng thẳng, chưa sẵn sàng sinh con thì việc phá thai là hoàn toàn hợp pháp.
Canada là một trong số ít các nước hoàn toàn hợp pháp hóa việc phá thai. Thậm chí, hành vi ngăn cản phụ nữ tới các bệnh viện, phòng khám chuyên khoa để phá thai mới là phạm pháp.
Ở Anh, phụ nữ được phép phá thai trong vòng 24 tuần đầu của thai kì đi kèm với việc không giới hạn độ tuổi phá thai của thai phụ, miễn là có sự đồng ý của bác sĩ tư vấn.
Vào năm 2018, một chiến dịch mang tên “Mẹ ơi, đừng giết con” của một nhóm bạn trẻ với mục đích kêu gọi kiến nghị quốc hội Việt Nam ban hành Luật cấm nạo phá thai để cứu lấy hơn 300.000 thai nhi vô tội bị giết mỗi năm. Họ cho rằng, sự “thoải mái” có chừng mực này đã làm mất nhân tính con người, đưa Việt Nam lọt top thế giới về tỷ lệ nạo phá thai.
Luật phá thai của các nước được ban hành có một vài điểm khác nhau, vì nó phụ thuộc rất lớn vào các yếu tố như quan điểm tôn giáo, đạo đức, xã hội, kinh tế, chính trị và sức khỏe. Nhưng nhìn chung, nguyên nhân dẫn đến luật cho phép phá thai dựa trên các yếu tố như bảo vệ quyền lựa chọn của phụ nữ, bảo vệ sức khỏe phụ nữ và bảo vệ lợi ích kinh tế, xã hội.
Tại một số quốc gia, họ cho rằng, phụ nữ có quyền làm chủ cơ thể mình, họ được toàn quyền quyết định sẽ có con hay không, hay khi có thai có quyền bỏ hoặc giữ cái thai mà không ai được phép can thiệp. Bên cạnh đó, họ gắn quyền được phá thai và quyền tự do và nhân quyền của phụ nữ, nếu vi phạm sẽ gây hậu quả tiêu cực cho cuộc sống và sự nghiệp của họ. Ví dụ, Mỹ đã thông qua luật Roe v. Wade năm 1973, công nhận quyền được phá thai là một quyền riêng tư được bảo vệ bởi Hiến pháp.
Ngoài ra, một số nước nhận thấy rủi ro khi ban hành luật cấm phá thai. Phụ nữ sẽ tìm đến các phương pháp nguy hiểm nhằm tự mình chấm dứt thai kỳ, gây hậu quả khó lường như biến chứng nghiêm trọng, thậm chí là tử vong. Việc ban hành luật cho phép phá thai như là biện pháp bảo vệ sức khỏe người phụ nữ, giảm thiếu các rủi ro.
Nguy hiểm hơn, một số quốc gia cho rằng nếu cấm phá thai sẽ gây gia tăng dân số, gia tăng đói nghèo, nạn thất nghiệp, trẻ mồ côi,…Việc cho phép phá thai sẽ giảm thiểu các vấn đề xã hội, nâng cao đời sống và hạnh phúc của người dân. Ví dụ, Trung Quốc đã áp dụng chính sách một con từ năm 1979 đến 2015, khuyến khích hoặc bắt buộc các gia đình chỉ được sinh một con và cho phép phá thai trong trường hợp vi phạm.
Tuy nhiên, các yếu tố nêu ở trên chỉ đang xét trên bình diện quyền tự do chọn lựa của người mẹ mà bỏ qua hoàn toàn quyền được sống của đứa trẻ họ đang mang.
Thai nhi đã là người kể từ khi trứng và tinh trùng gặp nhau và tạo thành tế bào đầu tiên. Do đó, chúng có đầy đủ quyền, phẩm giá và không thể xâm phạm. Việc hợp pháp hóa phá thai luôn luôn là một hành vi đáng lên án về mặt đạo đức, bất kể thai nhi đó được hình thành do bị hiếp dâm, loạn luân, hay đang ở trong giai đoạn nào của thai kỳ, hoặc khả năng mắc bệnh hay khuyết tật trong quá trình phát triển.
Chúng ta thừa nhận quyền tự do chọn lựa của người phụ nữ, đồng thời cũng phải thừa nhận quyền được sống của một thai nhi. Không ai được quyền quyết định một thai nhi sẽ được sống hay không, mà chúng phải được sống. Sự tự do đích thực của mỗi người luôn phải đặt trong phạm vi với nhân quyền và sự tự so của người khác.
Chính vì thế, việc ban hành luật cho phép phá thai dù là ở tuần tuổi bao nhiêu, hay được hình thành bởi bất cứ nguyên do nào đều là đang dung túng cho hành vi giết người, gián tiếp gây nên cái chết của hơn 300.000 sinh linh mỗi năm ở Việt Nam.
Khi thai phụ gặp khó khăn trong quá trình mang thai, chính phủ cần có những biện pháp, chính sách hỗ trợ bằng mọi giá, tạo mọi điều kiện dễ dàng hơn để thai phụ có thể đưa ra những quyết định có lợi cho thai nhi, thay vì là hợp pháp hóa cho phép họ bỏ đi đứa con của mình.
Một số nước Châu Âu cũng cho phép phá thai khi thai nhi chưa quá 12 tuần tuổi. Riêng ở Bỉ, nếu phụ nữ cảm thấy căng thẳng, chưa sẵn sàng sinh con thì việc phá thai là hoàn toàn hợp pháp.
Canada là một trong số ít các nước hoàn toàn hợp pháp hóa việc phá thai. Thậm chí, hành vi ngăn cản phụ nữ tới các bệnh viện, phòng khám chuyên khoa để phá thai mới là phạm pháp.
Ở Anh, phụ nữ được phép phá thai trong vòng 24 tuần đầu của thai kì đi kèm với việc không giới hạn độ tuổi phá thai của thai phụ, miễn là có sự đồng ý của bác sĩ tư vấn.
Vào năm 2018, một chiến dịch mang tên “Mẹ ơi, đừng giết con” của một nhóm bạn trẻ với mục đích kêu gọi kiến nghị quốc hội Việt Nam ban hành Luật cấm nạo phá thai để cứu lấy hơn 300.000 thai nhi vô tội bị giết mỗi năm. Họ cho rằng, sự “thoải mái” có chừng mực này đã làm mất nhân tính con người, đưa Việt Nam lọt top thế giới về tỷ lệ nạo phá thai.
Luật phá thai của các nước được ban hành có một vài điểm khác nhau, vì nó phụ thuộc rất lớn vào các yếu tố như quan điểm tôn giáo, đạo đức, xã hội, kinh tế, chính trị và sức khỏe. Nhưng nhìn chung, nguyên nhân dẫn đến luật cho phép phá thai dựa trên các yếu tố như bảo vệ quyền lựa chọn của phụ nữ, bảo vệ sức khỏe phụ nữ và bảo vệ lợi ích kinh tế, xã hội.
Tại một số quốc gia, họ cho rằng, phụ nữ có quyền làm chủ cơ thể mình, họ được toàn quyền quyết định sẽ có con hay không, hay khi có thai có quyền bỏ hoặc giữ cái thai mà không ai được phép can thiệp. Bên cạnh đó, họ gắn quyền được phá thai và quyền tự do và nhân quyền của phụ nữ, nếu vi phạm sẽ gây hậu quả tiêu cực cho cuộc sống và sự nghiệp của họ. Ví dụ, Mỹ đã thông qua luật Roe v. Wade năm 1973, công nhận quyền được phá thai là một quyền riêng tư được bảo vệ bởi Hiến pháp.
Ngoài ra, một số nước nhận thấy rủi ro khi ban hành luật cấm phá thai. Phụ nữ sẽ tìm đến các phương pháp nguy hiểm nhằm tự mình chấm dứt thai kỳ, gây hậu quả khó lường như biến chứng nghiêm trọng, thậm chí là tử vong. Việc ban hành luật cho phép phá thai như là biện pháp bảo vệ sức khỏe người phụ nữ, giảm thiếu các rủi ro.
Nguy hiểm hơn, một số quốc gia cho rằng nếu cấm phá thai sẽ gây gia tăng dân số, gia tăng đói nghèo, nạn thất nghiệp, trẻ mồ côi,…Việc cho phép phá thai sẽ giảm thiểu các vấn đề xã hội, nâng cao đời sống và hạnh phúc của người dân. Ví dụ, Trung Quốc đã áp dụng chính sách một con từ năm 1979 đến 2015, khuyến khích hoặc bắt buộc các gia đình chỉ được sinh một con và cho phép phá thai trong trường hợp vi phạm.
Tuy nhiên, các yếu tố nêu ở trên chỉ đang xét trên bình diện quyền tự do chọn lựa của người mẹ mà bỏ qua hoàn toàn quyền được sống của đứa trẻ họ đang mang.
Thai nhi đã là người kể từ khi trứng và tinh trùng gặp nhau và tạo thành tế bào đầu tiên. Do đó, chúng có đầy đủ quyền, phẩm giá và không thể xâm phạm. Việc hợp pháp hóa phá thai luôn luôn là một hành vi đáng lên án về mặt đạo đức, bất kể thai nhi đó được hình thành do bị hiếp dâm, loạn luân, hay đang ở trong giai đoạn nào của thai kỳ, hoặc khả năng mắc bệnh hay khuyết tật trong quá trình phát triển.
Chúng ta thừa nhận quyền tự do chọn lựa của người phụ nữ, đồng thời cũng phải thừa nhận quyền được sống của một thai nhi. Không ai được quyền quyết định một thai nhi sẽ được sống hay không, mà chúng phải được sống. Sự tự do đích thực của mỗi người luôn phải đặt trong phạm vi với nhân quyền và sự tự so của người khác.
Chính vì thế, việc ban hành luật cho phép phá thai dù là ở tuần tuổi bao nhiêu, hay được hình thành bởi bất cứ nguyên do nào đều là đang dung túng cho hành vi giết người, gián tiếp gây nên cái chết của hơn 300.000 sinh linh mỗi năm ở Việt Nam.
Khi thai phụ gặp khó khăn trong quá trình mang thai, chính phủ cần có những biện pháp, chính sách hỗ trợ bằng mọi giá, tạo mọi điều kiện dễ dàng hơn để thai phụ có thể đưa ra những quyết định có lợi cho thai nhi, thay vì là hợp pháp hóa cho phép họ bỏ đi đứa con của mình.
Chỉnh sửa lần cuối: