phailamgi?
Tham gia
18/12/23
Bài viết
516

Ngày 13/11/1985, tin Đức cha Phêrô Maria Nguyễn Huy Quang, Giám mục chính tòa Giáo phận Hưng Hóa, qua đời, không khỏi tạo nên sự ngậm ngùi, thương tiếc của bà con giáo dân xứ Đoài, nơi ngài đã phải chịu nhiều gian khổ suốt 25 năm trong sứ vụ Giám mục.


phailamgi_Đức cha Phêrô Maria Nguyễn Huy Quang vị mục tử hiền lành chịu nhiều phiền lụy_cv1.jpg

Đức cha Phê rô Maria Nguyễn Huy Quang, ảnh chụp năm 1960. Ảnh: Wikipia

Vài nét tiểu sử

Đức Cha Phêrô Maria Nguyễn Huy Quang sinh ngày 03/10/1910, tại Giáo họ Bến Thôn (nay là Giáo xứ Bến Thôn), thuộc xã Dị Nậu, huyện Thạch Thất, Thành phố Hà Nội.

Năm 1925, ngài gia nhập Tiểu chủng viện Hà Thạch, sau đó giúp xứ Yên Tập, huyện Cẩm Khê, tỉnh Phú Thọ, cho đến khi vào Đại chủng viện.

Năm 1933, ngài được bề trên giáo phận gửi về học tại chủng viện Saint Sulpice (Liễu Giai, Hà Nội). Ngài là một trong số 30 chủng sinh khóa đầu tiên của Đại chủng viện này.

Sau khi học xong Chủng viện, ngày 30/11/1940, ngài được thụ phong linh mục và lần lượt được bổ nhiệm làm phó xứ giáo xứ Bách Lộc (1941 – 1950), chánh phiên Vĩnh Thọ (1950 – 1960)

Thời gian làm phó xứ Bách Lộc, trong một lần lên tháp chuông nhà thờ để chỉ huy các giáo dân bảo vệ thánh đường (1948-1949), ngài bị hỏa pháo bắn hư một mắt. (Bùi Đức Sinh, Giáo hội Công giáo ở Việt Nam, NXB. Calgary-Canada, 1998, tr. 442)

Năm 1956, ngài được Đức cha Phêrô Khuất Văn Tạo, Giám mục Đại diện Tông Tòa Hải phòng, kiêm Giám quản Giáo phận Bắc Ninh xin chính phủ về giúp Giáo phận Hải Phòng. Tuy nhiên, ngài chỉ nhận được một giấy phép ngắn hạn và bị buộc phải trở về Sơn Tây, ngày 24/9/1956. (x. Phêrô Maria Khuất Văn Tạo, Chứng từ của một Giám mục, Hội thân hữu Giáo phận hải Phòng 2018, tr. 55)

Ngày 5/10/1959, trước khi bị trục xuất khỏi Việt Nam, Đức cha jean Marie Mazé (Kim), giám mục Giáo phân Hưng Hóa, đã đặt ngài làm Tổng đại diện, điều hành giáo phận cho tới khi được bổ nhiệm làm Giám mục.

phailamgi_Đức cha Phêrô Maria Nguyễn Huy Quang vị mục tử hiền lành chịu nhiều phiền lụy_cv2.jpg
Nhà thờ Chính tòa Sơn Lộc - Giáo phận Hưng Hóa

Nhẫn lại làm chứng

Ngày 5/3/1960, để chuẩn bị cho việt thiết lập hàng giáo phẩm Việt Nam, Đức Giáo hoàng Gioan XXIII đã bổ nhiệm ngài làm Giám mục Tông tòa, hiệu tòa “Claudiopolis In Asauria” lãnh đạo Giáo phận Hưng Hóa.

Sau khi được bổ nhiệm, vì Đức cha J.M. Mazé (Kim) tiền nhiệm của ngài đã bị trục xuất, và vì việc bổ nhiệm ngài không được nhà nước công nhận, nên việc tổ chức lễ phong chức cho ngài không thể diễn ra cách công khai.

Vì thế, lấy cớ đi chữa mắt tại Hà Nội, ngài đã được Đức cha Giuse Trịnh Như Khuê phong chức âm thầm vào lúc 2 giờ sáng, ngày 23/4/1960, tại nhà nguyện của Tòa Giám mục Hà Nội.

Sau khi được thụ phong, ngài tiếp tục âm thầm phục vụ như một cha xứ tại Sơn Tây.

Ngày 24/11/1960, Tòa thánh thiết lập hàng giáo phẩm Việt Nam, đồng thời tuyên bố nâng các Tòa giám mục Việt Nam lên hàng chính tòa và công bố các giám mục coi sóc các Giáo phận; khi đó mọi người mới biết ngài đã là giám mục.

Ngày 08/12/1960, ngày lễ Đức Mẹ vô nhiễm, Quan thầy đệ nhất của Giáo phận, Đức Cha Phêrô lần đầu tiên mặc phẩm phục giám mục và dâng lễ đại triều tại nhà thờ Sơn Tây.

Giáo phận Hưng Hóa vào thời điểm ngài được Tòa thánh đặt làm người coi sóc chỉ còn lại 34 linh mục, đa số già yếu, phục vụ 55 giáo xứ, với khoảng 356 nhà thờ lớn nhỏ, rải rác trên một địa bàn rộng lớn.

Các nhà thờ này phần lớn bị phá hủy sau đó, do chiến tranh, bị chiếm đoạt làm kho thóc hợp tác xã hoặc làm trường học. Ruộng đất, đồi nương của các xứ họ bị quốc hữu hóa. Các trường đào tạo chủng sinh bị đóng cửa, sách đạo không được in ấn, thậm chí còn bị tịch thu.

phailamgi_Đức cha Phêrô Maria Nguyễn Huy Quang vị mục tử hiền lành chịu nhiều phiền lụy_1.jpg
Các linh mục giáo phận Hưng Hóa - cha Giuse Bảo đứng giữa, tóc bạc, tại Tòa Giám mục Bắc Ninh. Ảnh chụp ngày 25/1/1989

Về phần ngài, giống như tất cả các Giám mục tại miền Bắc lúc đó, suốt 25 năm trong chức vụ giám mục, ngài hầu như bị quản chế không được đi kinh lược các xứ họ; thậm chí có lần về quê Bến Thôn, ngài còn bị cấm cản không được vào nhà thờ, không được dâng lễ.

Cuối năm 1968, các cha Giuse Nguyễn Đức Thịnh, Giuse Nguyễn Ngọc Bảo và một số chủng sinh bị quy kết tham gia tổ chức “Tư sản Dân quyền”. Trong tư cách chủ chăn của Giáo phận, ngài đã phải chịu nhiều phiền lụy.

Suốt một thời gian dài, ngài liên tục bị công an tỉnh gọi lên chất vấn, ngài chỉ trả lời: “Các ông đã hỏi tôi điều đó, tôi đã trả lời, không có ý kiến thêm.” Có viên công an có lần còn cắc cớ hỏi ngài cách mỉa mai: “Ông có biết vì sao ông bị hư mắt không?” (Bùi Đức Sinh, Giáo hội Công giáo ở Việt Nam, NXB. Calgary-Canada, 1998, tr. 443)

Tại thị xã Sơn Tây người ta còn bắc loa trõ vào Tòa giám mục và hô khẩu hiệu: “Đả đảo tập đoàn Nguyễn Huy Quang”.

Trong bối cảnh khó khăn như vậy, ngài vẫn âm thầm đào tạo và truyền chức được nhiều linh mục cho giáo phận vào những năm: 1961, 1962, 1973, 1978, 1980, 1981; và nhẫn nại điều hành giáo phận vững vàng tiến bước vượt qua mọi giống tố cho đến khi qua đời ngày 13/11/1985, hưởng thọ 75 tuổi, 45 năm trong chức vụ linh mục và 25 năm giám mục; nhờ đó mà Hưng Hóa có được ngày hôm nay.​
 

Sức sống mới từ những thay đổi mới của Đức tân Giáo hoàng Leo XIV

0 lượt xem

Bài viết chờ bạn bình luận

Bên trên