- Chủ đề Author
- #1
Nói tới các chứng nhân đức tin tại Giáo phận Vinh, không thể không nhắc đến vị giám mục người Việt tiên khởi của giáo phận, Đức cha Gioan Baotixita Trần Hữu Đức, vị mục tử khôn ngoan, tài đức, sẵn sàng đương đầu với những khó khăn của thời cuộc.
Vài hàng tiểu sử
Đức cha Gioan Baotixita Trần Hữu Đức sinh ngày 24/6/1891, tại xứ Thổ Hoàng, xã Điền Mỹ, huyện Hương Khê, Hà Tĩnh ngày nay.
Năm lên 10, ngài mồ côi cha. Năm 1910 tuổi, thấy ngài có chí hướng tu trì, gia đình gửi ngài tu học tại Tiểu Chủng viện Xã Đoài. Những năm học tại đây, ngài luôn đứng tốp đầu lớp.
Năm 1914, mãn Tiểu chủng viện, thấy ngài có khả năng, Bề trên giáo phận gửi ngài đi giúp xứ và làm giáo sư La tinh tại Tiểu Chủng viện Xã Đoài.
Năm 1920, cùng với chủng sinh Phaolô Trần Đình Nhiên, ngài được chọn du học tại Chủng viện Pénang, tại Mã Lai.
Sau 7 năm theo học, ngày 2/4/1927, ngài được thụ phong linh mục tại nhà thờ Xã Đoài cùng với người bạn cố tri là cha Phaolô Trần Đình Nhiên.
Sau khi chịu chức linh mục, suốt 15 năm sau đó, ngài được bổ nhiệm làm giáo sư các môn Latinh, Pháp văn, Lịch sử Giáo hội tại Tiểu Chủng viện Xã Đoài.
Năm 1945, chiến tranh thế giới thứ II bùng nổ. Nhật đảo chính Pháp. Việt Minh cướp chính quyền. Vùng đất Nghệ - Tĩnh – Bình, cái nôi của cách mạng, trở nên rối ren.
Năm lên 10, ngài mồ côi cha. Năm 1910 tuổi, thấy ngài có chí hướng tu trì, gia đình gửi ngài tu học tại Tiểu Chủng viện Xã Đoài. Những năm học tại đây, ngài luôn đứng tốp đầu lớp.
Năm 1914, mãn Tiểu chủng viện, thấy ngài có khả năng, Bề trên giáo phận gửi ngài đi giúp xứ và làm giáo sư La tinh tại Tiểu Chủng viện Xã Đoài.
Năm 1920, cùng với chủng sinh Phaolô Trần Đình Nhiên, ngài được chọn du học tại Chủng viện Pénang, tại Mã Lai.
Sau 7 năm theo học, ngày 2/4/1927, ngài được thụ phong linh mục tại nhà thờ Xã Đoài cùng với người bạn cố tri là cha Phaolô Trần Đình Nhiên.
Sau khi chịu chức linh mục, suốt 15 năm sau đó, ngài được bổ nhiệm làm giáo sư các môn Latinh, Pháp văn, Lịch sử Giáo hội tại Tiểu Chủng viện Xã Đoài.
Năm 1945, chiến tranh thế giới thứ II bùng nổ. Nhật đảo chính Pháp. Việt Minh cướp chính quyền. Vùng đất Nghệ - Tĩnh – Bình, cái nôi của cách mạng, trở nên rối ren.
Ảnh: onnguonsuviet.com
Trở thành Giám mục
Trong bối cảnh chính trị phức tạp đó, ngày 27/7/1945, Đức cha Eloy (Bắc), phần vì cao tuổi, phần vì phong trào yêu nước nổi lên chống các thừa sai, đã quyết định bổ nhiệm cha Trần Hữu Đức làm Cha Chính địa phận (Vicarius Delagatus), thay ngài quán xuyến các công việc trong giáo phận.
Suốt thời gian này, ngài đã phải đau khổ trăm phần, trải bao phen nguy hiểm, nhiều lần rơi vào cảnh túng cực, thế mà ngài cứ thản nhiên bình tĩnh, cậy trông ơn trên, lấy đức khôn ngoan mà giải quyết mọi việc cách xuôi thuận, từ việc lo tang lễ cho vị tiền nhiệm là Đức cha Eloy (30/7/1946), đến việc hóa giải những bất đồng, những xung đột chính trị; đặc biệt, ngài có công lớn trong việc thành lập Liên Đoàn Công giáo, một tổ chức sẽ đóng góp rất nhiều cho Công giáo vùng đất Nghệ - Tĩnh – Bình.
Ngày 19/7/1950, biết rõ năng lực của ngài, Tòa thánh đã bổ nhiệm ngài làm Giám quản Tông tòa địa phận, nhưng phải đến ngày 4/11/1950, tin vui ấy mới đến được giáo phận.
Niềm vui tiếp tục nhân lên, ngày 18/9/1951, một sắc lệnh của Tòa thánh quyết định giao địa phận Vinh cho hàng giáo sĩ bản địa và đặt linh mục Gioan B. Trần Hữu Đức, giám mục hiệu toà Nicietane, làm giám mục người Việt tiên khởi coi sóc giáo phận này.
Suốt thời gian này, ngài đã phải đau khổ trăm phần, trải bao phen nguy hiểm, nhiều lần rơi vào cảnh túng cực, thế mà ngài cứ thản nhiên bình tĩnh, cậy trông ơn trên, lấy đức khôn ngoan mà giải quyết mọi việc cách xuôi thuận, từ việc lo tang lễ cho vị tiền nhiệm là Đức cha Eloy (30/7/1946), đến việc hóa giải những bất đồng, những xung đột chính trị; đặc biệt, ngài có công lớn trong việc thành lập Liên Đoàn Công giáo, một tổ chức sẽ đóng góp rất nhiều cho Công giáo vùng đất Nghệ - Tĩnh – Bình.
Ngày 19/7/1950, biết rõ năng lực của ngài, Tòa thánh đã bổ nhiệm ngài làm Giám quản Tông tòa địa phận, nhưng phải đến ngày 4/11/1950, tin vui ấy mới đến được giáo phận.
Niềm vui tiếp tục nhân lên, ngày 18/9/1951, một sắc lệnh của Tòa thánh quyết định giao địa phận Vinh cho hàng giáo sĩ bản địa và đặt linh mục Gioan B. Trần Hữu Đức, giám mục hiệu toà Nicietane, làm giám mục người Việt tiên khởi coi sóc giáo phận này.
Nhà thờ chính tòa Xã Đoài - GP Vinh. Ảnh: nhathoconggiao.vn
Vị mục tử thông minh, gan dạ
Giáo phận Vinh vào thời điểm ngài được chọn làm mục tử có khoảng 180.000 giáo dân, sống rải rác trong ba tỉnh Nghệ - Tĩnh- Bình và một phận hạ Lào.
Nên biết rằng, cả vùng đất rộng lớn này đã thuộc về Việt Minh từ năm 1946, còn gọi là vùng kháng chiến. Do đó, người Công giáo Vinh đã phải trải qua nhiều đau thương, đặc biệt những đợt cải cách ruộng đất lần đầu vào những năm 1952 – 1954, với nhiều linh mục bị bắt, đấu tố và chết rũ tù, như cha Hồ Sĩ Huề, Trương Quế, Nguyễn Tấn… (Bùi Đức Sinh, Giáo hội Công giáo ở Việt Nam, NXB. Calgary-Canada, 1998, tr. 246)
Vào thời điểm khốc liệt đó, Đức cha Trần Hữu Đức, nhờ trí thông minh gan dạ, đã khôn khéo chèo chống giáo phận Vinh vượt qua biết bao vấn đề phức tạp về tôn giáo – chính trị. Ngài viết nhiều thư chung định rõ thái độ người Công giáo cần có để có thể giữ vững đời sống đức tin của mình.
Năm 1954, đất nước chia đôi. Trước phong trào di cư ồ ạt, nhằm tranh thủ sự ủng hộ của đồng bào Công giáo, nhất là để ngăn chặn dòng người di tản, nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa đã thay đổi chiến thuật.
Sau 7 tháng di tản, chính quyền đã cho phép Đức cha cùng các chủng sinh từ Vạn Lộc hồi cư về Xã Đoài, đồng thời cho mở lại Chủng viện, thả hết các linh mục và các huynh trưởng của Liên đoàn Công giáo bị bắt trước đó.
Tuy vậy, kinh nghiệm từ cuộc cải cách ruộng đất, bất chấp mọi biện pháp ngăn chặn, người dân xứ Nghệ vẫn rầm rộ lên đường. Dịp này, thêm nhiều linh mục và giáo dân bị bắt và bị kết án theo Mỹ, “dụ dỗ đồng bào đi Nam”.
Trong bối cảnh đó, với vai trò là chủ chăn của giáo phận, Đức cha trở thành đối tượng của các đòn thù, với các màn vu khống thô thiển.
Chính quyền kết tội ngài “mang lệnh và kế hoạch của Đức Khâm sứ Dooley, tổ chức cho người đi Nam, phát thuốc độc để các linh mục bỏ xuống giếng ám sát cán bộ.”
Không chỉ có vậy, họ còn khám nhà, đưa ngài ra trước Hội đồng Nhân dân của 17 xã thuộc huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An, nhằm đấu tố ngài. (Ibid., tr. 457)
Dù vậy, ngài vẫn bình tĩnh, vui vẻ, khiến không chỉ giáo dân mà ngay cả những cán bộ được cắt cử theo dõi ngài đều kính trọng ngài.
Sau thời Cải cách và Cải tạo công thương, suốt thập niên 1960, Giáo phận Vinh là thùng lửa đạn. Các cuộc oanh kích của không quân Mỹ đã gây bao thiệt hại cho Giáo phận. Ngày 21/7/1968, nhà thờ chính tòa, chủng viện, nhà chung, bị đánh bom. Đức cha Phaolo Trần Đình Nhiên bị thương nặng qua đời ngày 23/4/1969.
Hai năm sau, ngày 5/1/1971, Đức cha Gioan B. cũng qua đời, thọ 80 tuổi, 44 năm linh mục và 20 năm Giám mục.
Nên biết rằng, cả vùng đất rộng lớn này đã thuộc về Việt Minh từ năm 1946, còn gọi là vùng kháng chiến. Do đó, người Công giáo Vinh đã phải trải qua nhiều đau thương, đặc biệt những đợt cải cách ruộng đất lần đầu vào những năm 1952 – 1954, với nhiều linh mục bị bắt, đấu tố và chết rũ tù, như cha Hồ Sĩ Huề, Trương Quế, Nguyễn Tấn… (Bùi Đức Sinh, Giáo hội Công giáo ở Việt Nam, NXB. Calgary-Canada, 1998, tr. 246)
Vào thời điểm khốc liệt đó, Đức cha Trần Hữu Đức, nhờ trí thông minh gan dạ, đã khôn khéo chèo chống giáo phận Vinh vượt qua biết bao vấn đề phức tạp về tôn giáo – chính trị. Ngài viết nhiều thư chung định rõ thái độ người Công giáo cần có để có thể giữ vững đời sống đức tin của mình.
Năm 1954, đất nước chia đôi. Trước phong trào di cư ồ ạt, nhằm tranh thủ sự ủng hộ của đồng bào Công giáo, nhất là để ngăn chặn dòng người di tản, nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa đã thay đổi chiến thuật.
Sau 7 tháng di tản, chính quyền đã cho phép Đức cha cùng các chủng sinh từ Vạn Lộc hồi cư về Xã Đoài, đồng thời cho mở lại Chủng viện, thả hết các linh mục và các huynh trưởng của Liên đoàn Công giáo bị bắt trước đó.
Tuy vậy, kinh nghiệm từ cuộc cải cách ruộng đất, bất chấp mọi biện pháp ngăn chặn, người dân xứ Nghệ vẫn rầm rộ lên đường. Dịp này, thêm nhiều linh mục và giáo dân bị bắt và bị kết án theo Mỹ, “dụ dỗ đồng bào đi Nam”.
Trong bối cảnh đó, với vai trò là chủ chăn của giáo phận, Đức cha trở thành đối tượng của các đòn thù, với các màn vu khống thô thiển.
Chính quyền kết tội ngài “mang lệnh và kế hoạch của Đức Khâm sứ Dooley, tổ chức cho người đi Nam, phát thuốc độc để các linh mục bỏ xuống giếng ám sát cán bộ.”
Không chỉ có vậy, họ còn khám nhà, đưa ngài ra trước Hội đồng Nhân dân của 17 xã thuộc huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An, nhằm đấu tố ngài. (Ibid., tr. 457)
Dù vậy, ngài vẫn bình tĩnh, vui vẻ, khiến không chỉ giáo dân mà ngay cả những cán bộ được cắt cử theo dõi ngài đều kính trọng ngài.
Sau thời Cải cách và Cải tạo công thương, suốt thập niên 1960, Giáo phận Vinh là thùng lửa đạn. Các cuộc oanh kích của không quân Mỹ đã gây bao thiệt hại cho Giáo phận. Ngày 21/7/1968, nhà thờ chính tòa, chủng viện, nhà chung, bị đánh bom. Đức cha Phaolo Trần Đình Nhiên bị thương nặng qua đời ngày 23/4/1969.
Hai năm sau, ngày 5/1/1971, Đức cha Gioan B. cũng qua đời, thọ 80 tuổi, 44 năm linh mục và 20 năm Giám mục.