- Chủ đề Author
- #1
BÌNH LUẬN: Cuộc tranh cãi gần đây trong chuyến thăm của Volodymyr Zelenskyy tới Nhà Trắng đặt ra một câu hỏi quan trọng về giáo huấn của Giáo hội trong các nỗ lực ngoại giao nhằm đạt được hòa bình giữa các quốc gia.
Tổng thống Donald Trump và Tổng thống Ukraine Volodymyr Zelenskyy gặp nhau tại Phòng Bầu dục ở Nhà Trắng vào ngày 28 tháng 2 năm 2025, tại Washington. (Ảnh: Jabin Botsford/The Washington Post qua Getty Images)
Cuộc chiến tại Ukraine và các nỗ lực quốc tế nhằm khởi động tiến trình hòa bình đã đặt ngoại giao toàn cầu vào tâm điểm chú ý. Theo tôi, cả giới truyền thông lẫn công chúng đều chưa hiểu hết lượng thời gian và công sức khổng lồ cần thiết cho các cuộc đàm phán ngoại giao quốc tế.
Chính tôi cũng không nhận ra điều đó cho đến khi bắt đầu làm việc tại Phủ Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh. Chỉ khi đó tôi mới bắt đầu nhận thức được sự kiên nhẫn tột độ và chiến lược tỉ mỉ cần có để đạt được dù chỉ một bước tiến nhỏ. Việc lùi bước xảy ra thường xuyên như — thậm chí còn thường xuyên hơn — tiến bộ, cho đến khi bất ngờ đạt được một đột phá nào đó.
Điều làm cho các diễn biến gần đây liên quan đến cuộc khủng hoảng Ukraine trở nên đặc biệt là vào ngày 28 tháng 2, thế giới đã chứng kiến một điều thường chỉ diễn ra sau cánh cửa đóng kín. Điều lẽ ra chỉ là một cuộc họp báo tiêu chuẩn giữa hai nguyên thủ quốc gia đã biến thành một cuộc tranh cãi tương đối nhẹ nhàng. Thực tế, những gì xảy ra trong Phòng Bầu dục quá quen thuộc đến mức có thể coi là không đáng chú ý nếu nó không diễn ra công khai trước công chúng. Ngay cả các thánh Gioan XXIII và Gioan Phaolô II cũng từng lớn tiếng khi tham gia vào các cuộc đối thoại quốc tế căng thẳng.
Ảnh minh họa
Sự cố gần đây tại Nhà Trắng đặt ra một câu hỏi quan trọng về giáo huấn của Giáo hội Công giáo liên quan đến các nỗ lực ngoại giao nhằm đạt được hòa bình giữa các quốc gia. Vấn đề này càng quan trọng hơn khi truyền thông thường đơn giản hóa các cuộc xung đột thành việc chọn đứng về phía nào hoặc quy kết chính sách là “diều hâu” hay “bồ câu”. Thêm vào đó là xu hướng đánh giá bất kỳ cuộc xung đột vũ trang nào chỉ dựa trên tiêu chí có “chính nghĩa” hay không, theo các nguyên tắc lâu đời về “chiến tranh chính nghĩa”.
Ví dụ, R.R. Reno, biên tập viên của tờ First Things, dựa vào các nguyên tắc đó để lập luận rằng việc Ukraine không đạt được mục tiêu của mình và phương Tây không sẵn sàng “tham chiến với đủ lực lượng và cam kết” đã làm mất đi tính chính nghĩa của cuộc chiến.
Tuy nhiên, theo học thuyết xã hội Công giáo, có ít nhất hai nguyên tắc cơ bản hơn cả nguyên tắc xác định một cuộc chiến tranh chính nghĩa. Nguyên tắc đầu tiên là phẩm giá con người và “khuynh hướng tự nhiên của con người và các dân tộc trong việc thiết lập các mối quan hệ với nhau” (Tóm lược Học thuyết Xã hội của Giáo hội, số 433).
Mặt khác, một nguyên tắc như vậy dường như quá trừu tượng đến mức không thực tế, nhưng mặt khác, không thể giả định rằng các tác nhân quốc tế — dù là biện minh cho việc tham chiến hay bày tỏ thiện chí tham gia đàm phán hòa bình — đều hành động theo nguyên tắc đó.
Việc cầm vũ khí để thực hiện một cuộc diệt chủng hoặc xâm lược một quốc gia để khai thác tài nguyên thiên nhiên của nước đó là những ví dụ nghiêm trọng, mặc dù hoàn cảnh thường phức tạp hơn nhiều do các tranh chấp lãnh thổ và sự dịch chuyển dân cư qua thời gian dài. Tương tự, một quốc gia có thể tham gia các cuộc đàm phán song phương hoặc đa phương mà không hề có ý định tuân thủ các nghị quyết của hiệp ước sau đó. Trong những trường hợp như vậy, học thuyết xã hội Công giáo khẳng định rằng luật pháp quốc tế phải trở thành người bảo đảm trật tự quốc tế.
Ví dụ, R.R. Reno, biên tập viên của tờ First Things, dựa vào các nguyên tắc đó để lập luận rằng việc Ukraine không đạt được mục tiêu của mình và phương Tây không sẵn sàng “tham chiến với đủ lực lượng và cam kết” đã làm mất đi tính chính nghĩa của cuộc chiến.
Tuy nhiên, theo học thuyết xã hội Công giáo, có ít nhất hai nguyên tắc cơ bản hơn cả nguyên tắc xác định một cuộc chiến tranh chính nghĩa. Nguyên tắc đầu tiên là phẩm giá con người và “khuynh hướng tự nhiên của con người và các dân tộc trong việc thiết lập các mối quan hệ với nhau” (Tóm lược Học thuyết Xã hội của Giáo hội, số 433).
Mặt khác, một nguyên tắc như vậy dường như quá trừu tượng đến mức không thực tế, nhưng mặt khác, không thể giả định rằng các tác nhân quốc tế — dù là biện minh cho việc tham chiến hay bày tỏ thiện chí tham gia đàm phán hòa bình — đều hành động theo nguyên tắc đó.
Việc cầm vũ khí để thực hiện một cuộc diệt chủng hoặc xâm lược một quốc gia để khai thác tài nguyên thiên nhiên của nước đó là những ví dụ nghiêm trọng, mặc dù hoàn cảnh thường phức tạp hơn nhiều do các tranh chấp lãnh thổ và sự dịch chuyển dân cư qua thời gian dài. Tương tự, một quốc gia có thể tham gia các cuộc đàm phán song phương hoặc đa phương mà không hề có ý định tuân thủ các nghị quyết của hiệp ước sau đó. Trong những trường hợp như vậy, học thuyết xã hội Công giáo khẳng định rằng luật pháp quốc tế phải trở thành người bảo đảm trật tự quốc tế.
Ảnh: thcslytutrongst.edu.vn
Liên quan đến nguyên tắc đầu tiên này là nguyên tắc chủ quyền quốc gia, được hiểu “trước hết như một biểu hiện của sự tự do phải chi phối các mối quan hệ giữa các quốc gia.” Nhiều người coi đây là mấu chốt của vấn đề tại Ukraine, bởi vì, bất chấp lịch sử đầy biến động và vô cùng phức tạp của mình, hầu hết cộng đồng quốc tế (ngoại trừ Nga) đã công nhận chủ quyền quốc gia của Ukraine từ năm 1991.
Điều này vô cùng quan trọng, vì một số người cho rằng những chia rẽ nội bộ của Ukraine và tình trạng tham nhũng gây sốc của một số nhà lãnh đạo gần đây làm suy giảm tính chính đáng trong tuyên bố chủ quyền của nước này. Tuy nhiên, nếu kết hợp hai nguyên tắc trên, rõ ràng việc sắp xếp lại trật tự chính trị nội bộ — dù rất hỗn loạn — của Ukraine là một vấn đề nội bộ mà nước này phải tự giải quyết thông qua căng thẳng trong nước.
Đối với Nga, có lẽ không nguyên tắc nào của học thuyết xã hội Công giáo lại phù hợp hơn nguyên tắc này: “Chủ quyền quốc gia không phải là tuyệt đối. Các quốc gia có thể tự nguyện từ bỏ việc thực hiện một số quyền của mình vì một mục tiêu chung, với ý thức rằng họ hình thành nên một ‘gia đình các quốc gia’ nơi mà sự tin tưởng, hỗ trợ và tôn trọng lẫn nhau phải chiếm ưu thế.”
Tôi nhận thấy rằng việc áp dụng nguyên tắc này đối với Nga sẽ cần có sự giải thích sâu rộng, điều mà tôi không có ý định thực hiện ở đây. Chỉ cần nói rằng nguyên tắc Công giáo này mở ra cơ hội để cộng đồng quốc tế thực thi quyền lực pháp lý chính đáng nhằm hỗ trợ giải quyết các tuyên bố trái ngược nhau và xác định quyền lợi của một quốc gia có chủ quyền đối với một quốc gia khác mà không phủ nhận hoặc hạn chế nền độc lập của bất kỳ bên nào.
Ảnh: epochtimesviet.com
Như Đức Giáo hoàng Gioan XXIII đã dạy trong thông điệp lịch sử Pacem in Terris:
“Thẩm quyền công cộng của cộng đồng thế giới không nhằm giới hạn phạm vi hoạt động của thẩm quyền công cộng của từng cộng đồng chính trị riêng lẻ, càng không nhằm thay thế thẩm quyền đó. Ngược lại, mục đích của nó là tạo ra, trên quy mô toàn cầu, một môi trường trong đó các cơ quan công quyền của từng cộng đồng chính trị, các công dân của họ và các hiệp hội trung gian có thể thực hiện nhiệm vụ, hoàn thành nghĩa vụ và thực thi các quyền của mình với sự đảm bảo an toàn hơn.”
Tất cả những điều này không làm cho giải pháp cho cuộc khủng hoảng Ukraine trở nên dễ dàng hơn. Ngược lại, với chút hiện thực chính trị, bản Tóm lược Học thuyết Xã hội của Giáo hội thừa nhận rằng “vẫn chưa có thỏa thuận quốc tế nào giải quyết thỏa đáng ‘quyền của các quốc gia,’ mà việc chuẩn bị thỏa thuận này có thể xử lý hiệu quả các vấn đề về công lý và tự do trong thế giới ngày nay.”
Cuối cùng, mặc dù Giáo hội đưa ra giáo huấn và nhất là lời cầu nguyện của mình để chấm dứt cuộc chiến đẫm máu này, Giáo hội cũng không bao giờ tự nhận mình có các giải pháp thực tiễn để làm như vậy. Vì thế, vẫn còn chỗ cho những bất đồng về con đường dẫn tới hòa bình.
Phải làm gì?
Docat 290: Đâu là những điều kiện cho phép tổ chức cuộc “chiến tranh phòng vệ”?
Việc sử dụng vũ lực để phòng vệ chỉ chính đáng với một vài điều kiện phải được áp dụng trong phạm vi hẹp. Các cơ quan “có trách nhiệm bảo vệ công ích” sẽ phải quyết định xem các điều kiện này có được đáp ứng hay không. Bốn tiêu chí sau đây được coi là đặc biệt quan trọng:
Thiệt hại do kẻ xâm lược gây ra phải “lâu dài, nghiêm trọng, và chắc chắn”. Không có các phương tiện nào khác để ngăn chặn hoặc chấm dứt những thiệt hại đã gây ra. Tất cả các phương cách ôn hoà nhằm giải quyết xung đột đã được vận dụng. Hậu quả của việc sử dụng vũ khí để phòng thủ không được xấu hơn so với những thiệt hại do kẻ xâm lược gây ra. Ở đây hậu quả tàn phá của việc sử dụng các loại vũ khí huỷ diệt hàng loạt phải được đặc biệt xem xét. Việc phòng vệ phải có cơ hội thành công trong thực tế.