Behold God’s Providence
Tham gia
17/12/23
Bài viết
705

Trong một thế giới ngày càng đa dạng về các phương pháp tránh thai, Giáo hội Công giáo vẫn kiên định chỉ cho phép các cặp vợ chồng sử dụng phương pháp tránh thai tự nhiên. Mặc dù đây là một phương pháp tránh thai an toàn và tôn trọng phẩm giá con người, nhưng cũng đặt ra không ít thách đố cho đời sống hôn nhân.​


phailamgi_tránh thai tự nhiên_cv1.jpg

Ảnh: Canva

Trước tiên, Giáo hội Công giáo luôn nhấn mạnh rằng, hành vi tính dục trong hôn nhân nên mở ra khả năng tạo ra sự sống mới. Việc sử dụng các biện pháp tránh thai nhân tạo được coi là can thiệp vào quyền năng sáng tạo của Thiên Chúa, đi ngược lại với ý định của Ngài đối với sự sống.

Trong thông điệp Humanae Vitae, Đức Giáo hoàng Phaolo VI cho rằng các biện pháp tránh thai nhân tạo là phi tự nhiên và phi luân lý. Thông điệp cũng khẳng định các phương pháp tránh thai tự nhiên, dựa trên sự hiểu biết và chu kỳ sinh sản tự nhiên của phụ nữ, mới phù hợp với các nguyên tắc luân lý của Giáo hội Công giáo.

Do đó, phương pháp tránh thai tự nhiên là phương pháp tránh thai duy nhất mà Giáo hội đề cao và ủng hộ. Tuy nhiên, phương pháp này đòi hỏi sự kiên nhẫn và kiến thức sâu rộng về chu kỳ sinh sản của người phụ nữ. Điều này có thể trở thành một gánh nặng cho đôi vợ chồng, đặc biệt là trong những giai đoạn cuộc sống bận rộn hoặc căng thẳng.

phailamgi_tránh thai tự nhiên_cv2.jpg
Ảnh: Canva

Một trong những thách đố lớn nhất của việc tránh thai tự nhiên là sự hợp tác và đối thoại liên tục giữa hai vợ chồng. Quá trình theo dõi, ghi chép các dấu hiệu sinh sản đòi hỏi sự tham gia và hỗ trợ từ cả hai. Nếu thiếu đi sự đồng thuận và hợp tác, phương pháp này có thể trở nên kém hiệu quả và gây ra mâu thuẫn trong mối quan hệ.

Đôi vợ chồng cũng có thể gặp phải áp lực tâm lý khi sử dụng phương pháp tránh thai nhân tạo. Việc phải kiểm soát và giới hạn thời điểm quan hệ tình dục có thể gây ra căng thẳng và làm giảm sự tự nhiên, thoải mái trong mối quan hệ vợ chồng.

Bên cạnh đó, tỉ lệ thành công của phương pháp tránh thai tự nhiên thấp hơn rất nhiều so với các phương pháp tránh thai nhân tạo. Điều này đòi hỏi các cặp vợ chồng phải sẵn sàng đối mặt và chấp nhận sự sống mới trong bất cứ hoàn cảnh nào.

phailamgi_sự sống mới.jpg
Ảnh: Canva

Để có thể vượt qua những thách đố của việc tránh thai tự nhiên, các cặp vợ chồng cần tìm đến các nguồn hỗ trợ và tư vấn chuyên nghiệp. Việc tham gia các khoá học về sức khoẻ sinh sản, gặp gỡ các chuyên gia tư vấn hoặc sử dụng các ứng dụng theo dõi chu kỳ kinh nguyệt có thể giúp cải thiện độ chính xác và hiệu quả của phương pháp này.

Tóm lại, tránh thai tự nhiên, với những thách đố đặc thù của nó, đòi hỏi các cặp vợ chồng phải kiên nhẫn, hợp tác và sẵn sàng đối mặt với mọi tình huống có thể xảy ra. Dù có thể gây ra không ít áp lực và căng thẳng, phương pháp này cũng mang lại nhiều lợi ích về sức khoẻ và gắn kết trong hôn nhân, giúp các cặp vợ chồng tận hưởng một đời sống hôn nhân hạnh phúc và bền vững.​

Phải làm gì?​

Tính chất hợp pháp của việc lợi dụng các thời kỳ không đậu thai

Phaolo VI, Humanae Vitae #16.
Như Ta trình bày trong đoạn 3 trên đây, hiện nay người ta chống đối lại lời giáo huấn của Giáo hội về nền luân lý hôn nhân, chủ trương rằng con người có quyền dùng tri thức của mình để quản trị và điều khiển các năng lực nằm trong thiên nhiên vô tri để mưu ích cho toàn thể nhân loại. Người ta đặt câu hỏi: nếu có thể, trong một vài trường hợp, sử dụng phương pháp nhân tạo để kiểm soát việc sinh sản hầu đem lại hòa đồng êm ấm cho gia đình và giúp cho việc giáo dục con cái (đã sinh ra rồi) được dễ dàng tốt đẹp hơn, thì tại sao lại không sử dụng?

Ta cần phải trả lời một cách minh xác rằng: Giáo hội sẵn sàng chấp nhận, tán thưởng việc dùng tri thức trong một lãnh vực, mọi công tác Thiên Chúa cùng hoạt động với tạo vật tri thức, như Giáo hội khẳng định rằng: trong trường hợp này, phải tôn trọng nền trật tự được Thiên Chúa thiết lập.

Vì thế, nếu có những hoàn cảnh, những lý do thể lý, tâm lý, hoặc ngoại cảnh đòi hỏi vợ chồng phải hạn chế bớt việc sinh con, thì trong trường hợp đó, Giáo hội cho biết có thể căn cứ vào các chu kỳ tự nhiên, cố hữu của cơ năng sinh sản để làm hành vi hôn nhân trong những thời gian không đậu thai, và chỉ có phương pháp điều tiết sinh sản ấy mới không đi ngược lại những nguyên tắc luân lý căn bản mà Ta vừa nhắc nhở trên đây.

Giáo hội không mâu thuẫn khi chủ trương rằng: người ta được áp dụng phương pháp các thời gian không đậu thai, đồng thời lên án việc sử dụng những phương pháp trực tiếp gây trở ngại cho việc sinh sản, dù với những lý do có vẻ đứng đắn, lương thiện. Quả vậy, hai sự việc trên đây hoàn toàn khác biệt nhau; trong trường hợp thứ nhất, đôi bạn sử dụng một cách hợp pháp những dữ kiện tự nhiên, còn trong trường hợp thứ hai, họ cản trở một diễn biến của thiên nhiên. Tuy trong cả hai trường hợp, hai người phối ngẫu đều tích cực, đồng ý với nhau tìm cách tránh không cho có con vì những lý do thoả đáng, nhưng đặc biệt trong trường hợp trước, hai người tự kiềm chế, không sử dụng quyền hạn của hôn phối trong những thời gian có thể đậu thai vì những nguyên do hợp lý, và sử dụng quyền hạn đó trong thời gian không thể có con để biểu lộ tình thương nhau và bảo vệ lòng chung thuỷ với nhau. Trong hành động này, hai người đã chứng tỏ một tình yêu hoàn toàn và thực sự lương thiện.​
 

Đất Thánh các linh mục - Tổng Giáo phận Sài Gòn

5:23364 lượt xem

Bài viết chờ bạn bình luận

Bên trên