- Chủ đề Author
- #1
Cha Raniero Cantalamesa, dòng Capuchino, giảng viên Phủ Giáo hoàng, trong kỳ tĩnh tâm Mùa Vọng năm 2011, chuẩn bị cho Thượng Hội đồng Giám mục năm 2012 về Tân Phúc Âm Hóa đã trình bày lịch sử truyền giáo của Hội thánh thành bốn giai đoạn mà ngài gọi là “bốn đợt sóng loan báo Tin mừng.”
Khác với cha Mario Menin trình bày công cuộc loan báo Tin mừng của Giáo hội dựa theo phương pháp của mỗi thời kỳ và theo vùng địa dư văn hóa, cha Raniero Cantalamessa lại nhấn đến tác nhân và đối tượng được nghe loan báo Tin mừng.
Ở đây, nhân dịp năm mục vụ 2025 của Giáo hội Công giáo Việt Nam với chủ đề "cùng nhau loan báo Tin mừng," chúng tôi xin được tóm lại ngắn gọn nội dung 4 bài giảng của ngài để rút ra những bài học cho sứ vụ loan báo Tin mừng cho Giáo hội Việt Nam ngày nay.
Ở đây, nhân dịp năm mục vụ 2025 của Giáo hội Công giáo Việt Nam với chủ đề "cùng nhau loan báo Tin mừng," chúng tôi xin được tóm lại ngắn gọn nội dung 4 bài giảng của ngài để rút ra những bài học cho sứ vụ loan báo Tin mừng cho Giáo hội Việt Nam ngày nay.
Đức Hồng y Raniero Cantalamessa, Giảng viên Phủ Giáo hoàng, giảng tĩnh tâm cho Giáo triều Mùa chay 2024. Ảnh: Vietcatholic |
Đợt sóng thứ nhất: ba thế kỷ đầu
Đây là giai đoạn mà Kitô giáo tự mày mò tìm hướng đi và chỉ dựa vào sức riêng mình, chứ không dựa vào bất cứ thế lực nào. Hơn nữa, đây là giai đoạn Giáo hội bị bách hại nghiêm trọng. Vì thế, chọn lựa theo đạo là chấp nhận đi ngược dòng và có nguy cơ tới tính mạng. Thế nhưng, bất chấp tất cả Tin mừng ngày càng lan rộng.
Trong hai thế kỷ đầu tiên, việc giảng đạo do các sáng kiến của các cá nhân, cách riêng là các ngôn sứ lưu động, nay đây mai đó. Họ chọn lối sống dành cả cuộc đời cho công việc truyền giáo. Họ đi khắp các thành thị, làng mạc, gõ cửa từng ngôi nhà, để hy vọng mang được càng nhiều Kitô hữu về cho Chúa thì càng tốt. Nhiều cuộc trở lại là kết quả của những cuộc tiếp xúc thường nhật như thế.
Vào thế kỷ thứ III, công cuộc truyền giáo không còn chỉ là sáng kiến của các cá nhân, nhưng được chuyển sang các cộng đồng địa phương, dưới sự chỉ đạo của các giám mục. Kể từ đây, cộng đoàn là chủ thể của công cuộc truyền giáo và kết quả là “đức tin công giáo đã thấm nhập vào mọi giai tầng xã hội.” Giáo hội đã có cơ chế, cơ sở phụng tự, có nền văn chương riêng. Những cuộc bách hại đạo dữ dội của hoàng đế Dioclétien chứng tỏ rằng các Kitô hữu đã trở thành một thế lực đáng nể. Trước sự lớn mạnh không gì cưỡng lại đó, hoàng đế Contantin thấy không còn cách nào khác là hợp pháp hóa Kitô giáo thành quốc giáo.
Các sử gia đã đưa ra nhiều giả thuyết để lý giải về sự thành công này: đó có thể là do tấm gương yêu thương bác ái của các tín hữu; đó có thể là khả năng đáp ứng những khát vọng của thời đại, hoặc khả năng “dung nạp” những nền văn hóa khác biệt của Kitô giáo. Tuy nhiên, theo cha Cantalamessa, các lối tiếp cận dựa trên phương pháp lịch sử như vậy sẽ không lý giải hết được sự lớn mạnh của đức tin Kitô giáo mà “cần phải tìm lý do giải thích nơi chính động lực nội tại của Tin mừng.” Tin mừng chứa đựng tiềm lực phát triển do chính Thiên Chúa đã gắn vào. Tin mừng giống như hạt giống được gieo, “đêm hay ngày, người gieo hạt ngủ hay thức, thì hạt giống vẫn nảy mầm và mọc lên, bằng cách nào thì người ấy không biết” (x. Mc 4, 26-29; 30-32). Do đó, cần phải xác tín rằng, lý do mang lại thành công trong sứ vụ loan báo Tin mừng thì không đến từ bên ngoài, mà đến từ bên trong; rằng, công cuộc Phúc âm hóa không phải công trình của người gieo giống, cũng chẳng phải của đất đai, mà là của chính hạt giống được gieo. Hạt giống không tự gieo mình xuống lòng đất, nhưng hạt giống sẽ tự mình nảy mầm. Thánh Phaolô là người ý thức rõ điều này nên đã viết: “Tôi trồng, Apôlô tưới, nhưng Thiên Chúa mới là Đấng làm cho cây mọc lên. Vì thế, người gieo chẳng là gì, người tưới cũng chẳng là chi; duy chỉ có Đấng làm cho cây tăng trưởng mới là đáng kể” (1Cr 3, 6-7). Phần chúng ta, công việc quan trọng là “tưới nước lên hạt giống đã gieo” bằng phương thế mang tới ân sủng là lời cầu nguyện.
Trong hai thế kỷ đầu tiên, việc giảng đạo do các sáng kiến của các cá nhân, cách riêng là các ngôn sứ lưu động, nay đây mai đó. Họ chọn lối sống dành cả cuộc đời cho công việc truyền giáo. Họ đi khắp các thành thị, làng mạc, gõ cửa từng ngôi nhà, để hy vọng mang được càng nhiều Kitô hữu về cho Chúa thì càng tốt. Nhiều cuộc trở lại là kết quả của những cuộc tiếp xúc thường nhật như thế.
Vào thế kỷ thứ III, công cuộc truyền giáo không còn chỉ là sáng kiến của các cá nhân, nhưng được chuyển sang các cộng đồng địa phương, dưới sự chỉ đạo của các giám mục. Kể từ đây, cộng đoàn là chủ thể của công cuộc truyền giáo và kết quả là “đức tin công giáo đã thấm nhập vào mọi giai tầng xã hội.” Giáo hội đã có cơ chế, cơ sở phụng tự, có nền văn chương riêng. Những cuộc bách hại đạo dữ dội của hoàng đế Dioclétien chứng tỏ rằng các Kitô hữu đã trở thành một thế lực đáng nể. Trước sự lớn mạnh không gì cưỡng lại đó, hoàng đế Contantin thấy không còn cách nào khác là hợp pháp hóa Kitô giáo thành quốc giáo.
Các sử gia đã đưa ra nhiều giả thuyết để lý giải về sự thành công này: đó có thể là do tấm gương yêu thương bác ái của các tín hữu; đó có thể là khả năng đáp ứng những khát vọng của thời đại, hoặc khả năng “dung nạp” những nền văn hóa khác biệt của Kitô giáo. Tuy nhiên, theo cha Cantalamessa, các lối tiếp cận dựa trên phương pháp lịch sử như vậy sẽ không lý giải hết được sự lớn mạnh của đức tin Kitô giáo mà “cần phải tìm lý do giải thích nơi chính động lực nội tại của Tin mừng.” Tin mừng chứa đựng tiềm lực phát triển do chính Thiên Chúa đã gắn vào. Tin mừng giống như hạt giống được gieo, “đêm hay ngày, người gieo hạt ngủ hay thức, thì hạt giống vẫn nảy mầm và mọc lên, bằng cách nào thì người ấy không biết” (x. Mc 4, 26-29; 30-32). Do đó, cần phải xác tín rằng, lý do mang lại thành công trong sứ vụ loan báo Tin mừng thì không đến từ bên ngoài, mà đến từ bên trong; rằng, công cuộc Phúc âm hóa không phải công trình của người gieo giống, cũng chẳng phải của đất đai, mà là của chính hạt giống được gieo. Hạt giống không tự gieo mình xuống lòng đất, nhưng hạt giống sẽ tự mình nảy mầm. Thánh Phaolô là người ý thức rõ điều này nên đã viết: “Tôi trồng, Apôlô tưới, nhưng Thiên Chúa mới là Đấng làm cho cây mọc lên. Vì thế, người gieo chẳng là gì, người tưới cũng chẳng là chi; duy chỉ có Đấng làm cho cây tăng trưởng mới là đáng kể” (1Cr 3, 6-7). Phần chúng ta, công việc quan trọng là “tưới nước lên hạt giống đã gieo” bằng phương thế mang tới ân sủng là lời cầu nguyện.
Đợt sóng hai: thế giới man di
Sự xâm nhập của các dân tộc man di làm cho đế quốc Roma sụp đổ năm 476 đặt Giáo hội trước một vận hội mới nhiều thử thách. Không còn đế quốc nữa, nhưng cơ man nào là những vương quốc man di xuất hiện. Trong bối cảnh đó, Giáo hội phải chọn lựa cách thức nào để không gây nhiều đỗ vỡ ngay bên trong Giáo hội. May mắn thay, nhờ những vị mục tử sáng suốt, Giáo hội ý thức một thời cơ mới mở ra cho việc truyền giảng Tin mừng.
Trước đây, Kitô giáo đón nhận văn hóa Hylạp và Rôma vào khối gia sản đức tin; bây giờ đến lượt Kitô giáo dùng kho tàng văn hóa của mình để giáo dục những ông chủ mới tới. Thực ra công cuộc rao giảng Tin mừng ở giai đoạn này (kéo dài cho đến thế kỷ IX) gồm nhiều mặt trận: một đàng củng cố đức tin nơi những người đã theo đạo, cách riêng ở vùng thôn quê; đàng khác, rao giảng Tin mừng cho những dân chưa biết Chúa, cách riêng ở vùng Bắc Âu. Như thế việc giảng đạo cũng bao hàm việc giáo dục văn hóa.
Những nhân vật chủ chốt của công tác này là các đan sĩ, bên Tây cũng như bên Đông. Sở dĩ như vậy, bởi vì hệ thống các đan viện khởi phát từ thế kỷ thứ 5 đến thế kỷ thứ 8 đã lan rộng khắp các lục địa châu Âu. Nhiều đan viện trong số đó có vai trò quan trọng trong việc định hình dung mạo tôn giáo, văn hóa, nông nghiệp của lục địa châu Âu. Nổi bật nhất trong số các đan sĩ là thánh Biển Đức, thánh Colomban (542-651), thánh Bonifacio (672-754).
Một bài học của giai đoạn này là việc loan truyền Tin mừng đi đôi với việc đối thoại văn hóa, nhưng nhất là nhiệt khí bắt nguồn từ đời sống chiêm niệm, như các đan sĩ đã cho thấy. Điều này có nghĩa là không những các đan sĩ sống đời chiêm niệm cần cầu nguyện nhiều cho các nhà truyền giáo, nhưng mà các nhà truyền giáo cần phải trở nên những con người chiêm niệm. Nói cách khác, cầu nguyện cho các nhà truyền giáo không đủ, mà cần phải có lời cầu nguyện của các nhà truyền giáo.
Cầu nguyện – đó là điều Đức Giêsu thường làm. Ngài không chỉ cầu nguyện trước khi rao giảng mà Ngài cầu nguyện để biết điều gì cần phải rao giảng, để kín múc nơi kinh nguyện những điều cần phải loan báo cho thế giới: “Vậy, những gì tôi nói, thì tôi nói đúng như Chúa Cha đã nói với tôi” (Ga 12, 50).
Có hai nguy cơ xảy ra trong nỗ lực loan báo Tin mừng ngày nay, đó là tình trạng lười biếng, chẳng làm gì cả và tình trạng lăng xăng, vội vàng lao vào mà tâm hồn trống rỗng theo cách thế loài người. Người không làm gì thì sẽ chẳng làm được gì, nhưng người rao giảng Tin mừng mà không cầu nguyện thì giống như một nhóm chữa cháy, vội vàng đến nơi dập lửa, nhưng khi nhìn vào bình lại không có nước. Trong nỗ lực loan báo Tin mừng, cầu nguyện là vấn đề mấu chốt, bởi vì, “mục đích ưu tiên số một của loan báo Tin mừng không phải là truyền bá một mớ giáo lý, mà là truyền thông cái cụ thể liên quan tới hiện sinh con người.” Vì thế, người cầu nguyện mà không nói thì loan báo Tin mừng nhiều hơn người nói nhiều mà không cầu nguyện.
Trước đây, Kitô giáo đón nhận văn hóa Hylạp và Rôma vào khối gia sản đức tin; bây giờ đến lượt Kitô giáo dùng kho tàng văn hóa của mình để giáo dục những ông chủ mới tới. Thực ra công cuộc rao giảng Tin mừng ở giai đoạn này (kéo dài cho đến thế kỷ IX) gồm nhiều mặt trận: một đàng củng cố đức tin nơi những người đã theo đạo, cách riêng ở vùng thôn quê; đàng khác, rao giảng Tin mừng cho những dân chưa biết Chúa, cách riêng ở vùng Bắc Âu. Như thế việc giảng đạo cũng bao hàm việc giáo dục văn hóa.
Những nhân vật chủ chốt của công tác này là các đan sĩ, bên Tây cũng như bên Đông. Sở dĩ như vậy, bởi vì hệ thống các đan viện khởi phát từ thế kỷ thứ 5 đến thế kỷ thứ 8 đã lan rộng khắp các lục địa châu Âu. Nhiều đan viện trong số đó có vai trò quan trọng trong việc định hình dung mạo tôn giáo, văn hóa, nông nghiệp của lục địa châu Âu. Nổi bật nhất trong số các đan sĩ là thánh Biển Đức, thánh Colomban (542-651), thánh Bonifacio (672-754).
Một bài học của giai đoạn này là việc loan truyền Tin mừng đi đôi với việc đối thoại văn hóa, nhưng nhất là nhiệt khí bắt nguồn từ đời sống chiêm niệm, như các đan sĩ đã cho thấy. Điều này có nghĩa là không những các đan sĩ sống đời chiêm niệm cần cầu nguyện nhiều cho các nhà truyền giáo, nhưng mà các nhà truyền giáo cần phải trở nên những con người chiêm niệm. Nói cách khác, cầu nguyện cho các nhà truyền giáo không đủ, mà cần phải có lời cầu nguyện của các nhà truyền giáo.
Cầu nguyện – đó là điều Đức Giêsu thường làm. Ngài không chỉ cầu nguyện trước khi rao giảng mà Ngài cầu nguyện để biết điều gì cần phải rao giảng, để kín múc nơi kinh nguyện những điều cần phải loan báo cho thế giới: “Vậy, những gì tôi nói, thì tôi nói đúng như Chúa Cha đã nói với tôi” (Ga 12, 50).
Có hai nguy cơ xảy ra trong nỗ lực loan báo Tin mừng ngày nay, đó là tình trạng lười biếng, chẳng làm gì cả và tình trạng lăng xăng, vội vàng lao vào mà tâm hồn trống rỗng theo cách thế loài người. Người không làm gì thì sẽ chẳng làm được gì, nhưng người rao giảng Tin mừng mà không cầu nguyện thì giống như một nhóm chữa cháy, vội vàng đến nơi dập lửa, nhưng khi nhìn vào bình lại không có nước. Trong nỗ lực loan báo Tin mừng, cầu nguyện là vấn đề mấu chốt, bởi vì, “mục đích ưu tiên số một của loan báo Tin mừng không phải là truyền bá một mớ giáo lý, mà là truyền thông cái cụ thể liên quan tới hiện sinh con người.” Vì thế, người cầu nguyện mà không nói thì loan báo Tin mừng nhiều hơn người nói nhiều mà không cầu nguyện.
Đợt sóng thứ ba: loan báo Tin mừng cho lục địa mới
Trong lịch sử Giáo hội, đợt sóng thứ ba diễn ra ngay sau cuộc khám phá ra tân thế giới. Các nước châu Âu, sau khi khám phá ra châu Mỹ (1492), đã nhanh chóng chiếm đóng lục địa này và mang theo những truyền thống tôn giáo và chính trị của mình áp đặt cho các nước thuộc địa: Bắc Mỹ theo Tin Lành, Mỹ châu Latinh theo Công giáo.
Sự áp đặt đó từng là đề tài tranh cãi trong các cuộc hội thảo gần đây về công cuộc truyền giáo tại châu Mỹ La Tinh. Thực ra, việc các nước châu Âu như Tây Ban Nha, hay Bồ Đào Nha, khi đến Mỹ châu La Tinh, ngoài việc mở rộng quyền bính chính trị trên các sắc dân bản địa, thì còn một nhiệm vụ quan trọng mà họ xác tín là phải mang niềm tin đến cho các dân tộc bản địa. Niềm xác tín này xuất phát từ một quan niệm thần học phổ biến lúc đó trong Giáo hội, cho rằng “ngoài Giáo hội không có ơn cứu độ.” Vì thế, việc áp đặt và dùng vũ lực bắt các dân tộc bản địa theo Kitô giáo, đối với chính quyền bảo hộ, là một việc phải làm, đúng hơn là một ân huệ. Do đó, họ tìm mọi cách để rửa tội cho càng nhiều người càng tốt. Dĩ nhiên, việc dùng vũ lực, áp đặt tôn giáo là việc làm không nên trong bối cảnh ngày nay, nhưng như Đức thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã nói tại Rôma, nhân dịp kỷ niệm 500 năm truyền giáo tại châu Mỹ: “Trong công cuộc loan báo Tin mừng, cũng như trong bất cứ công trình nào của con người, đã hẳn, có những thành công và những sai lầm, có những bóng tối và ánh sáng, nhưng, ánh sáng thì nhiều hơn bóng tối: đó là cả một Giáo hội sống động mà ngày nay đang tiêu biểu cho một phần quan trọng của Giáo hội hoàn cầu.”
Nếu trong đợt loan báo Tin mừng đầu tiên, những diễn viên chính là các giám mục và đợt sóng thứ hai là các đan sĩ, thì trong đợt sóng thứ ba này, các diễn viên chính lại là các tu sĩ thuộc các dòng: Phan Sinh, Đa Minh, Âu Tinh và sau này là Dòng Tên. Chính các tu sĩ thuộc các hội dòng này đã đóng một vai trò quyết định cho việc loan báo Tin mừng tại Mỹ châu La Tinh. Nhiều vị trong số họ đã chấp nhận hy sinh mạng sống, bỏ quê cha đất tổ, để chỉ mong “chiếm được nhiều linh hồn về cho Chúa Kitô.”
Ngày nay, trong nỗ lực Phúc âm hóa các dân tộc, vai trò của các tu sĩ tiếp tục giữ một vị trí quan trọng. Tuy nhiên, điều quan ngại chính là tình trạng giảm sút ơn gọi đang ngày càng thu hẹp các đan viện, cũng như các dòng tu. Nhiều dòng tu đã phải đóng cửa và một trong những lý do quan trọng không hẳn là sự tục hóa, nhưng chính là việc các dòng tu khép kín, không mở ra cho sứ vụ loan báo Tin mừng bằng chính kinh nghiệm thiết thân của mình về Thiên Chúa. Chính kinh nghiệm thiết thân đó sẽ tạo sức hút cho có thêm nhiều ơn gọi. Vì thế, hãy mở toang các cộng đoàn cho Chúa Thánh Thần, để Ngài đổi mới kinh nguyện, đời sống huynh đệ, tình yêu đối với Đức Kitô, và cùng với Ngài nhiệt tình truyền giảng Tin mừng.
Sự áp đặt đó từng là đề tài tranh cãi trong các cuộc hội thảo gần đây về công cuộc truyền giáo tại châu Mỹ La Tinh. Thực ra, việc các nước châu Âu như Tây Ban Nha, hay Bồ Đào Nha, khi đến Mỹ châu La Tinh, ngoài việc mở rộng quyền bính chính trị trên các sắc dân bản địa, thì còn một nhiệm vụ quan trọng mà họ xác tín là phải mang niềm tin đến cho các dân tộc bản địa. Niềm xác tín này xuất phát từ một quan niệm thần học phổ biến lúc đó trong Giáo hội, cho rằng “ngoài Giáo hội không có ơn cứu độ.” Vì thế, việc áp đặt và dùng vũ lực bắt các dân tộc bản địa theo Kitô giáo, đối với chính quyền bảo hộ, là một việc phải làm, đúng hơn là một ân huệ. Do đó, họ tìm mọi cách để rửa tội cho càng nhiều người càng tốt. Dĩ nhiên, việc dùng vũ lực, áp đặt tôn giáo là việc làm không nên trong bối cảnh ngày nay, nhưng như Đức thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã nói tại Rôma, nhân dịp kỷ niệm 500 năm truyền giáo tại châu Mỹ: “Trong công cuộc loan báo Tin mừng, cũng như trong bất cứ công trình nào của con người, đã hẳn, có những thành công và những sai lầm, có những bóng tối và ánh sáng, nhưng, ánh sáng thì nhiều hơn bóng tối: đó là cả một Giáo hội sống động mà ngày nay đang tiêu biểu cho một phần quan trọng của Giáo hội hoàn cầu.”
Nếu trong đợt loan báo Tin mừng đầu tiên, những diễn viên chính là các giám mục và đợt sóng thứ hai là các đan sĩ, thì trong đợt sóng thứ ba này, các diễn viên chính lại là các tu sĩ thuộc các dòng: Phan Sinh, Đa Minh, Âu Tinh và sau này là Dòng Tên. Chính các tu sĩ thuộc các hội dòng này đã đóng một vai trò quyết định cho việc loan báo Tin mừng tại Mỹ châu La Tinh. Nhiều vị trong số họ đã chấp nhận hy sinh mạng sống, bỏ quê cha đất tổ, để chỉ mong “chiếm được nhiều linh hồn về cho Chúa Kitô.”
Ngày nay, trong nỗ lực Phúc âm hóa các dân tộc, vai trò của các tu sĩ tiếp tục giữ một vị trí quan trọng. Tuy nhiên, điều quan ngại chính là tình trạng giảm sút ơn gọi đang ngày càng thu hẹp các đan viện, cũng như các dòng tu. Nhiều dòng tu đã phải đóng cửa và một trong những lý do quan trọng không hẳn là sự tục hóa, nhưng chính là việc các dòng tu khép kín, không mở ra cho sứ vụ loan báo Tin mừng bằng chính kinh nghiệm thiết thân của mình về Thiên Chúa. Chính kinh nghiệm thiết thân đó sẽ tạo sức hút cho có thêm nhiều ơn gọi. Vì thế, hãy mở toang các cộng đoàn cho Chúa Thánh Thần, để Ngài đổi mới kinh nguyện, đời sống huynh đệ, tình yêu đối với Đức Kitô, và cùng với Ngài nhiệt tình truyền giảng Tin mừng.
Đợt sóng thứ bốn: thế giới tục hoá
Trong ba đợt sóng loan báo Tin mừng trước đây, người nhận lãnh Tin mừng thuộc thế giới Hy Lạp và Rôma, thế giới man di và Tân thế giới. Trong đợt sóng thứ tư này, thế giới mà Giáo hội được mời gọi loan báo Tin mừng là thế giới Tây phương hậu Kitô giáo, nghĩa là tuy mang truyền thống Kitô giáo nhưng trở thành dị ứng với sứ điệp Tin mừng, do ảnh hưởng của não trạng duy khoa học, tục hoá và duy lý, dẫn tới thứ chủ nghĩa tương đối lầm lạc.
Theo cha Raniero Cantalamesa, mỗi khi phát hiện ra một thế giới mới cần phải loan báo Tin mừng, thì chúng ta lại chứng kiến những con người loan báo Tin mừng được dành riêng cho giai đoạn đó: các giám mục suốt ba thế kỷ đầu, các đan sĩ trong đợt sóng thứ hai và các tu sĩ trong đợt sóng thứ ba. Ngày hôm nay, vai trò đó được dành cho người giáo dân.
Tuy nhiên, Cha Cantalamessa cũng lưu ý rằng, ở đây, không có chuyện thế hệ này ra đời thay thế cho thế hệ trước đó, mà ở đây chỉ nhằm nói đến một sức mạnh mới của dân Thiên Chúa đến để thêm vào những sức mạnh đã có trước đó. Các giám mục, dưới sự lãnh đạo của Đức Giáo hoàng, vẫn luôn là những nhà lãnh đạo có thẩm quyền và chịu trách nhiệm về sứ vụ Phúc âm hóa của Giáo hội.
Đây là điều mà các nghị phụ công đồng xác quyết và được các vị Giáo hoàng nhắc lại trong các thông điệp và tông huấn của các ngài. Theo đó, sứ mạng Phúc âm hóa là sứ mạng phổ quát đã được chính Chúa Giêsu ủy thác cho 72 môn đồ khi Ngài sai các ông “cứ từng hai người một, đi trước đến tất cả các làng mạc, những nơi mà Ngài sẽ đến” (Lc 10,1).
Trong tư cách là những tín hữu giữa đời, mỗi người giáo dân như một thứ năng lượng hạt nhân của Giáo hội trong sứ vụ loan báo Tin mừng. Chính đời sống của họ giữa đời dễ thu hút người khác đến với đức tin công giáo.
Người giáo dân hôm nay, theo Công đồng Vatican II, không chỉ là người cộng tác tùy theo nghề nghiệp, thời gian và khả năng của mỗi người, mà chính họ mang trên mình những đặc sủng, mà nhờ đó, họ tỏ ra thích hợp và trong tư thế sẵn sàng để cáng đáng những trách nhiệm khác nhau cho nỗ lực canh tân và phát triển Hội thánh. Đặc biệt trong bối cảnh ngày nay, khi ơn gọi ngày càng giảm sút, sự thiếu vắng các linh mục làm cho vai trò của người giáo dân trở nên quan trọng như là một ân sủng quan phòng.
Theo cha Raniero Cantalamesa, mỗi khi phát hiện ra một thế giới mới cần phải loan báo Tin mừng, thì chúng ta lại chứng kiến những con người loan báo Tin mừng được dành riêng cho giai đoạn đó: các giám mục suốt ba thế kỷ đầu, các đan sĩ trong đợt sóng thứ hai và các tu sĩ trong đợt sóng thứ ba. Ngày hôm nay, vai trò đó được dành cho người giáo dân.
Tuy nhiên, Cha Cantalamessa cũng lưu ý rằng, ở đây, không có chuyện thế hệ này ra đời thay thế cho thế hệ trước đó, mà ở đây chỉ nhằm nói đến một sức mạnh mới của dân Thiên Chúa đến để thêm vào những sức mạnh đã có trước đó. Các giám mục, dưới sự lãnh đạo của Đức Giáo hoàng, vẫn luôn là những nhà lãnh đạo có thẩm quyền và chịu trách nhiệm về sứ vụ Phúc âm hóa của Giáo hội.
Đây là điều mà các nghị phụ công đồng xác quyết và được các vị Giáo hoàng nhắc lại trong các thông điệp và tông huấn của các ngài. Theo đó, sứ mạng Phúc âm hóa là sứ mạng phổ quát đã được chính Chúa Giêsu ủy thác cho 72 môn đồ khi Ngài sai các ông “cứ từng hai người một, đi trước đến tất cả các làng mạc, những nơi mà Ngài sẽ đến” (Lc 10,1).
Trong tư cách là những tín hữu giữa đời, mỗi người giáo dân như một thứ năng lượng hạt nhân của Giáo hội trong sứ vụ loan báo Tin mừng. Chính đời sống của họ giữa đời dễ thu hút người khác đến với đức tin công giáo.
Người giáo dân hôm nay, theo Công đồng Vatican II, không chỉ là người cộng tác tùy theo nghề nghiệp, thời gian và khả năng của mỗi người, mà chính họ mang trên mình những đặc sủng, mà nhờ đó, họ tỏ ra thích hợp và trong tư thế sẵn sàng để cáng đáng những trách nhiệm khác nhau cho nỗ lực canh tân và phát triển Hội thánh. Đặc biệt trong bối cảnh ngày nay, khi ơn gọi ngày càng giảm sút, sự thiếu vắng các linh mục làm cho vai trò của người giáo dân trở nên quan trọng như là một ân sủng quan phòng.
Linh mục Gioan Nguyễn Ngọc Nam Phong, C.Ss.R.
Cùng chủ đề