Đi tìm chân lý
- Tham gia
- 25/1/24
- Bài viết
- 864
- Chủ đề Author
- #1
Đức Tân Giáo Hoàng Leo XIV dâng thánh lễ đầu tiên với tư cách là Giáo hoàng với các Hồng Y tại Nhà nguyện Sistine.
Dưới đây là toàn văn bài giảng của ngài do linh mục Lê Công Đức dịchTôi sẽ bắt đầu bằng vài lời tiếng Anh, phần còn lại là tiếng Ý. Tôi muốn nhắc lại những lời trong thánh vịnh đáp ca: “Tôi sẽ hát mừng Chúa một bài ca mới, vì Người đã làm nên những điều kỳ diệu.” Và thực sự, không chỉ với tôi, mà với tất cả chúng ta, các anh em hồng y của tôi. Khi chúng ta cử hành Thánh lễ sáng nay, tôi mời anh em nhận ra những điều kỳ diệu mà Chúa đã làm, những phước lành mà Chúa tiếp tục đổ xuống trên tất cả chúng ta. Qua sứ vụ của Phêrô, tôi đã được anh em kêu gọi mang thập giá ấy và được chúc lành với sứ mạng ấy. Và tôi biết rằng mình có thể tin cậy vào từng người trong anh em để cùng tôi bước đi, khi chúng ta tiếp tục bước tới như một Giáo hội, như một cộng đoàn các bạn hữu của Chúa Giêsu, như những người tin, để loan báo tin mừng, loan báo Phúc Âm.
[Bằng tiếng Ý]
“Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16:16). Trong những lời này, Phêrô, người được Thầy hỏi cùng với các môn đệ khác về đức tin của mình vào Người, đã cho thấy di sản mà Giáo hội, thông qua sự kế vị tông đồ, đã bảo tồn, đào sâu và truyền lại trong hai ngàn năm.
Chúa Giêsu là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống: Đấng Cứu Độ duy nhất, Đấng duy nhất mặc khải khuôn mặt của Chúa Cha.
Nơi Chúa Giêsu, Thiên Chúa - để trở nên gần gũi và dễ tiếp cận với con người - đã mặc khải chính mình cho chúng ta trong đôi mắt tin tưởng của một đứa bé, trong tâm trí sống động của một người trẻ và trong những nét trưởng thành của một người đàn ông (x. “Gaudium et Spes,” số 22), và cuối cùng đã hiện ra với các môn đệ sau khi phục sinh với thân xác vinh quang của Người. Do đó, Người đã cho chúng ta thấy một mẫu gương thánh thiện của con người mà tất cả chúng ta có thể noi theo, cùng với lời hứa về một số phận vĩnh cửu siêu vượt mọi giới hạn và khả năng của chúng ta.
Trong câu trả lời của mình, Phêrô hiểu cả hai điều này: ân huệ của Thiên Chúa và con đường phải theo để cho phép mình được biến đổi bởi ân huệ ấy. Đó là hai khía cạnh không thể tách rời của ơn cứu độ được trao phó cho Giáo hội để công bố vì lợi ích của nhân loại. Thật vậy, chúng được trao phó cho chúng ta, những kẻ được Người chọn trước khi được hình thành trong lòng mẹ (x. Gr 1,5), được tái sinh trong nước của Phép Rửa và, vượt qua những giới hạn của chúng ta và không có công trạng gì của riêng mình, được đưa đến đây và được sai đi từ đây, để Tin Mừng có thể được công bố cho mọi loài thụ tạo (x. Mc 16,15).
Theo một cách đặc biệt, Thiên Chúa đã gọi tôi qua sự bầu chọn của anh em để kế vị người đứng đầu các Tông đồ, và đã trao phó kho tàng này cho tôi, để với sự giúp đỡ của Người tôi có thể trở thành người quản lý trung thành của kho tàng này (x. 1Cr 4,2) vì lợi ích của toàn Nhiệm thể Giáo hội. Ngài đã làm thế để Giáo hội ngày càng trở thành một thành xây trên núi trọn vẹn hơn (x. Kh 21,10), một con tàu cứu rỗi đang lướt trên mặt biển lịch sử, và là ngọn hải đăng soi sáng những đêm tối của thế giới này. Và điều này, không phải qua vẻ nguy nga của các công trình kiến trúc hay sự đồ sộ của các tòa nhà – giống như các công trình xung quanh chúng ta đây – mà đúng hơn là qua sự thánh thiện của các thành viên Giáo hội. Vì chúng ta là dân mà Thiên Chúa đã chọn làm của riêng Người, để chúng ta có thể loan báo những kỳ công của Người, Đấng đã gọi chúng ta ra khỏi bóng tối để bước vào ánh sáng láng kỳ diệu của Người (x. 1Pr 2,9).
[Bằng tiếng Ý]
“Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16:16). Trong những lời này, Phêrô, người được Thầy hỏi cùng với các môn đệ khác về đức tin của mình vào Người, đã cho thấy di sản mà Giáo hội, thông qua sự kế vị tông đồ, đã bảo tồn, đào sâu và truyền lại trong hai ngàn năm.
Chúa Giêsu là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống: Đấng Cứu Độ duy nhất, Đấng duy nhất mặc khải khuôn mặt của Chúa Cha.
Nơi Chúa Giêsu, Thiên Chúa - để trở nên gần gũi và dễ tiếp cận với con người - đã mặc khải chính mình cho chúng ta trong đôi mắt tin tưởng của một đứa bé, trong tâm trí sống động của một người trẻ và trong những nét trưởng thành của một người đàn ông (x. “Gaudium et Spes,” số 22), và cuối cùng đã hiện ra với các môn đệ sau khi phục sinh với thân xác vinh quang của Người. Do đó, Người đã cho chúng ta thấy một mẫu gương thánh thiện của con người mà tất cả chúng ta có thể noi theo, cùng với lời hứa về một số phận vĩnh cửu siêu vượt mọi giới hạn và khả năng của chúng ta.
Trong câu trả lời của mình, Phêrô hiểu cả hai điều này: ân huệ của Thiên Chúa và con đường phải theo để cho phép mình được biến đổi bởi ân huệ ấy. Đó là hai khía cạnh không thể tách rời của ơn cứu độ được trao phó cho Giáo hội để công bố vì lợi ích của nhân loại. Thật vậy, chúng được trao phó cho chúng ta, những kẻ được Người chọn trước khi được hình thành trong lòng mẹ (x. Gr 1,5), được tái sinh trong nước của Phép Rửa và, vượt qua những giới hạn của chúng ta và không có công trạng gì của riêng mình, được đưa đến đây và được sai đi từ đây, để Tin Mừng có thể được công bố cho mọi loài thụ tạo (x. Mc 16,15).
Theo một cách đặc biệt, Thiên Chúa đã gọi tôi qua sự bầu chọn của anh em để kế vị người đứng đầu các Tông đồ, và đã trao phó kho tàng này cho tôi, để với sự giúp đỡ của Người tôi có thể trở thành người quản lý trung thành của kho tàng này (x. 1Cr 4,2) vì lợi ích của toàn Nhiệm thể Giáo hội. Ngài đã làm thế để Giáo hội ngày càng trở thành một thành xây trên núi trọn vẹn hơn (x. Kh 21,10), một con tàu cứu rỗi đang lướt trên mặt biển lịch sử, và là ngọn hải đăng soi sáng những đêm tối của thế giới này. Và điều này, không phải qua vẻ nguy nga của các công trình kiến trúc hay sự đồ sộ của các tòa nhà – giống như các công trình xung quanh chúng ta đây – mà đúng hơn là qua sự thánh thiện của các thành viên Giáo hội. Vì chúng ta là dân mà Thiên Chúa đã chọn làm của riêng Người, để chúng ta có thể loan báo những kỳ công của Người, Đấng đã gọi chúng ta ra khỏi bóng tối để bước vào ánh sáng láng kỳ diệu của Người (x. 1Pr 2,9).
Tuy nhiên, Phêrô tuyên xưng đức tin là để trả lời một câu hỏi cụ thể: “Người ta bảo Con Người là ai?” (Mt 16,13). Câu hỏi này không phải là không quan trọng. Nó liên quan đến một khía cạnh thiết yếu trong sứ vụ của chúng ta, nghĩa là liên quan đến thế giới mà chúng ta đang sống, với những hạn chế và những tiềm năng của nó, những chất vấn và những điều tin tưởng của nó.
“Người ta bảo Con Người là ai?” Nếu chúng ta suy ngẫm về bối cảnh mà chúng ta đang xem xét, chúng ta có thể tìm thấy hai câu trả lời, đặc trưng cho hai thái độ khác nhau.
Trước hết, có câu trả lời của thế giới. Mátthêu cho ta biết rằng cuộc trò chuyện này giữa Chúa Giêsu và các môn đệ diễn ra tại thị trấn xinh đẹp Xêdarê Philipphê, nơi có nhiều cung điện xa hoa, nằm trong một cảnh quan thiên nhiên hùng vĩ dưới chân Núi Hermon, nhưng cũng là một nơi của những trò chơi quyền lực tàn ác và là bối cảnh của sự phản bội và bất trung. Bối cảnh này nói với chúng ta về một thế giới coi Chúa Giêsu là một người hoàn toàn tầm thường, giỏi lắm chỉ là một người có cách ăn nói và hành động khác thường và gây ấn tượng. Và vì vậy, một khi sự hiện diện của Người trở nên gây khó chịu vì những đòi hỏi về sự trung thực và những yêu cầu đạo đức nghiêm ngặt của Người, thì “thế giới” này sẽ không ngần ngại từ khước và loại bỏ Người.
Rồi, cũng có thể có một câu trả lời khác cho câu hỏi của Chúa Giêsu: đó là câu trả lời của những người bình thường. Đối với họ, người Nadarét ấy không phải là một kẻ lừa bịp, mà là một con người ngay thẳng, một người có lòng dũng cảm, người ăn nói hay ho và nói những điều đúng đắn, giống như những nhà tiên tri vĩ đại khác trong lịch sử Israel. Đó là lý do tại sao họ theo Người, ít nhất là bao lâu họ có thể làm như vậy mà không có quá nhiều rủi ro hoặc bất tiện. Tuy nhiên, đối với họ, Người chỉ là một con người, và do đó, lúc lâm nguy, như trong cuộc khổ nạn của Người, họ cũng bỏ rơi Người và ra đi trong thất vọng.
Điều đáng chú ý về hai thái độ này là chúng vẫn còn đó ngày nay. Chúng chất chứa những quan niệm mà chúng ta có thể dễ dàng tìm thấy trên môi miệng của nhiều người nam và nữ trong thời đại của chúng ta, ngay cả dù về cơ bản là giống hệt, song chúng được diễn đạt bằng những ngôn ngữ khác nhau.
Ngay cả ngày nay, vẫn có nhiều bối cảnh trong đó đức tin Kitô giáo bị coi là vô lý, là thứ dành cho những người yếu đuối và khờ khạo. Những bối cảnh mà các sự an ổn khác được ưa chuộng hơn, như công nghệ, tiền bạc, thành công, quyền lực hoặc thú vui!
Đó là những bối cảnh thật không dễ để rao giảng Phúc Âm và làm chứng cho sự thật của Phúc Âm, những bối cảnh mà những người tin Chúa bị chế giễu, bị chống đối, khinh thường hoặc chỉ là được dung thứ và thương hại. Tuy nhiên, chính vì lý do này, đó là những nơi mà sự vươn ra của sứ mạng chúng ta vô cùng cần thiết. Tình trạng thiếu đức tin thường gắn liền một cách bi thảm với việc mất đi ý nghĩa trong cuộc sống, sự thờ ơ với lòng thương xót, những sự chà đạp khủng khiếp đối với phẩm giá con người, những khủng hoảng gia đình và rất nhiều vết thương khác đang hành hạ xã hội chúng ta. Và những tình trạng này đang có nhiều lắm.
Ngày nay, cũng có nhiều bối cảnh mà Chúa Giêsu, mặc dù được ngưỡng mộ như một con người, nhưng bị giảm trừ chỉ còn là một loại nhà lãnh đạo hay một siêu nhân có sức lôi cuốn. Điều này không chỉ đúng với những người không tin mà cũng đúng với nhiều Kitô hữu đã chịu Phép Rửa, là những người rốt cục sống, ở cấp độ này, trong một tình trạng vô thần thực tiễn.
Đây là thế giới đã được trao phó cho chúng ta, một thế giới mà trong đó - như Đức thánh cha Phanxicô đã dạy chúng ta rất nhiều lần - chúng ta được kêu gọi làm chứng cho đức tin đầy niềm vui của mình vào Chúa Giêsu, Đấng Cứu Độ. Do đó, thật thiết yếu việc chúng ta cũng lặp lại cùng với Phêrô: "Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống" (Mt 16,16).
Thật thiết yếu việc tuyên xưng như thế, trước hết, trong mối tương quan cá nhân của chúng ta với Chúa, trong cam kết dấn thân của chúng ta vào một hành trình hoán cải hằng ngày. Rồi, thật thiết yếu việc tuyên xưng như thế trong tư cách một Giáo hội, khi cùng nhau kinh nghiệm lòng trung tín của mình với Chúa và khi mang Tin Mừng đến cho mọi người (x. Lumen Gentium, số 1).
Tôi nói điều này trước hết với chính mình, trong tư cách là người kế vị Thánh Phêrô, khi tôi bắt đầu sứ mạng của mình là giám mục Rôma và - theo cách diễn đạt nổi tiếng của Thánh Inhaxiô thành Antiokia - tôi được kêu gọi chủ trì Giáo hội hoàn vũ trong đức ái (x. Thư gửi tín hữu Rôma, Lời mở đầu). Thánh Inhaxiô - bị xiềng xích và giải đến thành phố này, nơi sắp diễn ra cuộc hy sinh của ngài - đã viết cho các tín hữu ở đây: “Tôi sẽ thực sự là môn đệ của Chúa Giêsu Kitô, khi thế gian không còn nhìn thấy thân xác của tôi nữa” (Thư gửi tín hữu Rôma, IV, 1). Inhaxiô nói về việc bị thú dữ ăn thịt trong đấu trường - và điều đó đã xảy ra - nhưng lời của ngài cũng áp dụng cách rộng hơn cho một cam kết dấn thân khẩn thiết đối với tất cả những người trong Giáo hội đang thực thi một sứ vụ gắn với quyền bính. Đó là tránh sang một bên để chừa chỗ cho Chúa Kitô, đó là làm cho mình trở nên nhỏ bé để Người có thể được nhận biết và tôn vinh (x. Ga 3,30), và đó là tiêu hao hết mình để mọi người có cơ hội nhận biết và yêu mến Người.
Xin Thiên Chúa ban cho con ân sủng này, hôm nay và mãi mãi, nhờ sự chuyển cầu ân cần của Đức Maria, Mẹ Giáo hội.
LCĐ. dịch
“Người ta bảo Con Người là ai?” Nếu chúng ta suy ngẫm về bối cảnh mà chúng ta đang xem xét, chúng ta có thể tìm thấy hai câu trả lời, đặc trưng cho hai thái độ khác nhau.
Trước hết, có câu trả lời của thế giới. Mátthêu cho ta biết rằng cuộc trò chuyện này giữa Chúa Giêsu và các môn đệ diễn ra tại thị trấn xinh đẹp Xêdarê Philipphê, nơi có nhiều cung điện xa hoa, nằm trong một cảnh quan thiên nhiên hùng vĩ dưới chân Núi Hermon, nhưng cũng là một nơi của những trò chơi quyền lực tàn ác và là bối cảnh của sự phản bội và bất trung. Bối cảnh này nói với chúng ta về một thế giới coi Chúa Giêsu là một người hoàn toàn tầm thường, giỏi lắm chỉ là một người có cách ăn nói và hành động khác thường và gây ấn tượng. Và vì vậy, một khi sự hiện diện của Người trở nên gây khó chịu vì những đòi hỏi về sự trung thực và những yêu cầu đạo đức nghiêm ngặt của Người, thì “thế giới” này sẽ không ngần ngại từ khước và loại bỏ Người.
Rồi, cũng có thể có một câu trả lời khác cho câu hỏi của Chúa Giêsu: đó là câu trả lời của những người bình thường. Đối với họ, người Nadarét ấy không phải là một kẻ lừa bịp, mà là một con người ngay thẳng, một người có lòng dũng cảm, người ăn nói hay ho và nói những điều đúng đắn, giống như những nhà tiên tri vĩ đại khác trong lịch sử Israel. Đó là lý do tại sao họ theo Người, ít nhất là bao lâu họ có thể làm như vậy mà không có quá nhiều rủi ro hoặc bất tiện. Tuy nhiên, đối với họ, Người chỉ là một con người, và do đó, lúc lâm nguy, như trong cuộc khổ nạn của Người, họ cũng bỏ rơi Người và ra đi trong thất vọng.
Điều đáng chú ý về hai thái độ này là chúng vẫn còn đó ngày nay. Chúng chất chứa những quan niệm mà chúng ta có thể dễ dàng tìm thấy trên môi miệng của nhiều người nam và nữ trong thời đại của chúng ta, ngay cả dù về cơ bản là giống hệt, song chúng được diễn đạt bằng những ngôn ngữ khác nhau.
Ngay cả ngày nay, vẫn có nhiều bối cảnh trong đó đức tin Kitô giáo bị coi là vô lý, là thứ dành cho những người yếu đuối và khờ khạo. Những bối cảnh mà các sự an ổn khác được ưa chuộng hơn, như công nghệ, tiền bạc, thành công, quyền lực hoặc thú vui!
Đó là những bối cảnh thật không dễ để rao giảng Phúc Âm và làm chứng cho sự thật của Phúc Âm, những bối cảnh mà những người tin Chúa bị chế giễu, bị chống đối, khinh thường hoặc chỉ là được dung thứ và thương hại. Tuy nhiên, chính vì lý do này, đó là những nơi mà sự vươn ra của sứ mạng chúng ta vô cùng cần thiết. Tình trạng thiếu đức tin thường gắn liền một cách bi thảm với việc mất đi ý nghĩa trong cuộc sống, sự thờ ơ với lòng thương xót, những sự chà đạp khủng khiếp đối với phẩm giá con người, những khủng hoảng gia đình và rất nhiều vết thương khác đang hành hạ xã hội chúng ta. Và những tình trạng này đang có nhiều lắm.
Ngày nay, cũng có nhiều bối cảnh mà Chúa Giêsu, mặc dù được ngưỡng mộ như một con người, nhưng bị giảm trừ chỉ còn là một loại nhà lãnh đạo hay một siêu nhân có sức lôi cuốn. Điều này không chỉ đúng với những người không tin mà cũng đúng với nhiều Kitô hữu đã chịu Phép Rửa, là những người rốt cục sống, ở cấp độ này, trong một tình trạng vô thần thực tiễn.
Đây là thế giới đã được trao phó cho chúng ta, một thế giới mà trong đó - như Đức thánh cha Phanxicô đã dạy chúng ta rất nhiều lần - chúng ta được kêu gọi làm chứng cho đức tin đầy niềm vui của mình vào Chúa Giêsu, Đấng Cứu Độ. Do đó, thật thiết yếu việc chúng ta cũng lặp lại cùng với Phêrô: "Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống" (Mt 16,16).
Thật thiết yếu việc tuyên xưng như thế, trước hết, trong mối tương quan cá nhân của chúng ta với Chúa, trong cam kết dấn thân của chúng ta vào một hành trình hoán cải hằng ngày. Rồi, thật thiết yếu việc tuyên xưng như thế trong tư cách một Giáo hội, khi cùng nhau kinh nghiệm lòng trung tín của mình với Chúa và khi mang Tin Mừng đến cho mọi người (x. Lumen Gentium, số 1).
Tôi nói điều này trước hết với chính mình, trong tư cách là người kế vị Thánh Phêrô, khi tôi bắt đầu sứ mạng của mình là giám mục Rôma và - theo cách diễn đạt nổi tiếng của Thánh Inhaxiô thành Antiokia - tôi được kêu gọi chủ trì Giáo hội hoàn vũ trong đức ái (x. Thư gửi tín hữu Rôma, Lời mở đầu). Thánh Inhaxiô - bị xiềng xích và giải đến thành phố này, nơi sắp diễn ra cuộc hy sinh của ngài - đã viết cho các tín hữu ở đây: “Tôi sẽ thực sự là môn đệ của Chúa Giêsu Kitô, khi thế gian không còn nhìn thấy thân xác của tôi nữa” (Thư gửi tín hữu Rôma, IV, 1). Inhaxiô nói về việc bị thú dữ ăn thịt trong đấu trường - và điều đó đã xảy ra - nhưng lời của ngài cũng áp dụng cách rộng hơn cho một cam kết dấn thân khẩn thiết đối với tất cả những người trong Giáo hội đang thực thi một sứ vụ gắn với quyền bính. Đó là tránh sang một bên để chừa chỗ cho Chúa Kitô, đó là làm cho mình trở nên nhỏ bé để Người có thể được nhận biết và tôn vinh (x. Ga 3,30), và đó là tiêu hao hết mình để mọi người có cơ hội nhận biết và yêu mến Người.
Xin Thiên Chúa ban cho con ân sủng này, hôm nay và mãi mãi, nhờ sự chuyển cầu ân cần của Đức Maria, Mẹ Giáo hội.
LCĐ. dịch
Nguồn: Le Cong Duc Lm
Ảnh: Vatican Media