phailamgi?
Tham gia
18/12/23
Bài viết
405

Hội thánh Công giáo Việt Nam qua lá thư mục vụ của Hội đồng Giám mục Việt Nam tháng 10/2024 đã chọn chủ đề "Cùng nhau loan báo Tin mừng" làm chủ đề mục vụ cho Năm thánh 2025. Trong tinh thần cùng với Giáo hội suy tư về sứ vụ loan báo Tin mừng, xin được gửi tới bài viết của linh mục Gioan Nguyễn Ngọc Nam Phong, C.Ss.R. về "các khuôn mẫu truyền giáo trong lịch sử truyền giáo của Hội thánh."

Nghiên cứu về lịch sử truyền giáo của Giáo hội, Mario Menin, một linh mục thuộc Dòng Thừa sai Thánh Phanxicô Xaviê, Italia, đã tóm lại lịch sử truyền giáo suốt hơn hai mươi thế kỷ của Giáo hội trong bảy khuôn mẫu truyền giáo, đi cùng với đó là “bảy thời cơ lịch sử.” Dĩ nhiên, theo ngài, không nhất thiết vào mỗi giai đoạn, chỉ có một khuôn mẫu được áp dụng, nhưng đồng thời cũng có những phương pháp khác, đôi khi đối chọi nhau.

Ở đây, chúng tôi xin được tóm lại những gì tác giả đã trình bày cùng một vài nhận định về công cuộc truyền giáo trong lịch sử của Hội thánh.​

phailamgi_Những khuôn mẫu truyền giáo trong lịch sử truyền giáo của Hội thánh_cv1.jpg

Ba thế kỷ đầu: sứ vụ của các Kitô hữu

Suốt ba thế kỷ đầu, bất chấp những cuộc bách hại khốc liệt, Kitô giáo đã phát triển một cách nhanh chóng không gì có thể cưỡng lại. Thực tế, vào cuối thế kỷ thứ 1, “đã có khoảng 40 trung tâm ở rải rác khắp Miền Tiểu Á cho đến tận Roma. Những miền đông đảo hơn cả là: Samaria, Arabia, Syria, Cilicia, Galatia, Cappadocia, Bitinia và Ponto ở Tiểu Á, Creta và các đảo, rồi thêm Illiria, Mésopotamia, Ai Cập, Gaule, Germania, Tây Ban Nha, đó là không kể Italia. Thậm chí công cuộc loan báo Tin Mừng đã vượt ra khỏi biên cương đế quốc Roma, tiến sang Mésopotamia, đế quốc Ba Tư và hướng về Ấn Độ, Georgia và Ethiopia.”

Có nhiều cách giải thích khác nhau về sự tăng trưởng thần kỳ này. Có ý kiến cho rằng: “Trong suốt hai thế kỷ đầu, việc truyền bá đức tin chủ yếu là sáng kiến của các cá nhân. Các ngôn sứ lang thang, mà sách Didaché có đề cập tới. Họ di chuyển từ nơi nầy đến nơi khác; nhiều cuộc trở lại vốn là kết quả của những tiếp xúc cá nhân, giữa những người có cùng chung một ngành nghề nào đó, qua những chuyến hành trình chung và qua những quan hệ làm ăn buôn bán, qua việc cùng nhập ngũ với nhau hay qua những hoàn cảnh sống khác...” (Ranerio Cantalamessa, Bài giảng Mùa vọng năm 2011.)

Ý kiến khác thì cho rằng, chính vẻ đẹp của Kitô giáo, cùng với khả năng dung nạp, tức khả năng hòa hợp nơi mình những khuynh hướng vốn đối nghịch nhau và những giá trị khác nhau hiện diện trong các tôn giáo và trong nền văn hóa đương thời, (Ibid.) đã dễ dàng thu phục nhân tâm và dễ dàng gây ảnh hưởng tới quần chúng.

Tuy nhiên, qua sách Công vụ Tông đồ, điều dễ nhận thấy là, trong những yếu tố khác nhau tạo nên sự tăng trưởng của Kitô giáo thời đầu, chính là chứng từ đức tin đến mức tử đạo của cả một cộng đồng ý thức về lệnh truyền sai đi của Chúa (x. Mc 16, 15-16). Chính lệnh truyền này, cùng với niềm xác tín vào mầu nhiệm phục sinh làm cho các Tông đồ, bất chấp gian nan, bất chấp gông cùm, tù tội và ngay cả cái chết (x. 2Cr 6, 4-10), mạnh mẽ rao giảng về Chúa cho mọi người mà các cuộc hành trình truyền giáo của Thánh Phaolô là một ví dụ (x. 2 Cr 11, 26tt).

phailamgi_Những khuôn mẫu truyền giáo trong lịch sử truyền giáo của Hội thánh_1.jpg
Nhà thờ Đức Bà Paris

Truyền giáo cho các dân tộc Germanic và Slav

Thật khó để phục dựng lại toàn bộ diễn tiến của việc loan báo Tin mừng trong giai đoạn này. Theo Menin, khác với tình hình ở ba thế kỷ đầu tiên, “việc trở lại đạo giai đoạn này không xảy ra do những cuộc tiếp xúc cá nhân, nhờ những đường lối thuyết phục và đạo đức. Trái lại, việc trở lại đạo hàng loạt thường là do sự lôi cuốn (đôi khi cưỡng bách) theo gương của các người lãnh đạo, chẳng hạn sự trở lại đạo của Clovis, kéo theo sự trở lại của dân Franc hay sự cấu kết chặt chẽ giữa đời sống chính trị và đời sống tôn giáo của các dân tộc Germanic khiến cho việc trở lại đạo Kitô giáo không những là một hành động tôn giáo, mà còn là hành động xã hội và chính trị nữa.

Ở giai đoạn này, Giáo hội đã trải qua nhiều sự thay đổi: “Từ điều kiện của một thiểu số bị bách hại, Giáo hội trở thành một tổ chức to lớn và thế lực; từ một giáo phái gây rối sang một kẻ trừng trị các giáo phái; mọi liên lạc giữa đạo Kitô với đạo Do Thái đã bị cắt đứt; mối liên kết giữa triều đình và bàn thờ thêm thắt chặt; việc theo đạo Kitô được xem như chuyện đương nhiên; sứ vụ truyền giáo của mỗi tín hữu hầu như bị lãng quên; các tín điều được định tín; việc truyền giáo không dựa trên việc chuẩn bị biến cố Chúa quang lâm cho bằng dựa trên sự bành trướng Giáo hội.”

Nhân tố chủ động của hoạt động truyền giáo không còn là những cá nhân nhưng là Giáo hội, tuy chưa phải là Giáo hội trung ương tập quyền như vào những giai đoạn cận đại. Nhưng, ít nhất, việc truyền giáo đã phần nào được cơ chế hóa.

phailamgi_Những khuôn mẫu truyền giáo trong lịch sử truyền giáo của Hội thánh_cv2.jpg

Phong trào truyền giáo thứ nhất cho Châu Âu

Trong suốt bảy thế kỷ, từ thế kỷ thứ IV cho đến thế kỷ XII, việc truyền giáo tại Châu âu được thực hiện chủ yếu bởi các đan sĩ. Điều này có vẻ mâu thuẫn, vì đời sống đan tu là đời sống chiêm niệm, tìm thinh lặng nơi cô tịch. Tuy nhiên, trong thực tế, với ước ao nên thánh bằng “những cuộc tử đạo trắng” – bằng khổ chế, các đan sĩ đã rời bỏ đan viện lên đường truyền giáo, trong những cuộc hành trình đầy gian khổ. Họ trở thành những “người lữ hành vì lòng yêu mến Chúa Kitô.” Nhờ những cuộc lữ hành không mệt mỏi này, họ không chỉ trở thành những người loan báo Tin mừng cho lục địa Châu âu mà còn góp phần vào việc canh tân Giáo hội, khơi nguồn cho một nền văn hóa Kitô lan tràn khắp Âu Châu.

Những khuôn mặt tiêu biểu phái kể đến: thánh Columba, thánh Augustinô Canterbury, thánh Bonifaxiô.

phailamgi_Những khuôn mẫu truyền giáo trong lịch sử truyền giáo của Hội thánh_2.jpg
Người Công giáo Nam Mỹ. Ảnh Chicago Catholic

Thập tự quân

Thế kỷ XII - XIII, được đánh dấu bởi những cuộc thánh chiến, với mục đích tái chiếm Đất thánh, vô hình chung đưa ra một phương pháp truyền giáo mới: truyền giáo bằng vũ lực. Mặc dù, đây chỉ là tình huống bắt buộc do thời cuộc, nhưng tâm thức “thánh chiến – truyền giáo bằng ép buộc” và tâm thức coi Châu âu là trung tâm, sẽ còn tiếp tục ảnh hưởng trong công cuộc loan báo Tin mừng của Giáo hội, thể hiện cách cụ thể qua việc chinh phục của người Tây Ban Nha tại Nam Mỹ, hay trong một số thời kỳ truyền giáo của các thừa sai Châu âu tại Á châu.

Giai đoạn này, lịch sử ghi nhận cuộc gặp lịch sử của thánh Phanxicô Assisi – trong đoàn thập tự chinh, với vua Ai cập tại Đamietta, năm 1219, nhằm thuyết phục ông trở lại Kitô giáo, nhưng bất thành. Thánh nhân nhận ra rằng vũ lực không thích hợp với việc bành trướng nước Chúa. Người ngoại đạo không trở lại đạo là bởi vì người ta chưa khám phá vẻ đẹp của Tin Mừng. Từ đó, ngài đã cùng với các tu sĩ Dòng Phan Sinh quay về sống triệt để các mối phúc của Tin mừng. Thay cho cuộc “hành hương có vũ khí” của Thập tự quân, Phanxicô và các anh em mình quyết tâm trở nên những “người đền tội lữ hành” để thực thi sứ vụ loan báo Tin mừng.

Bên cạnh đó, cùng với các tu sĩ Dòng Đa Minh, các tu sĩ Phan Sinh còn nhận ra rằng, sự nhiệt thành, lòng can đảm thôi thì chưa đủ. Muốn loan báo Tin mừng cho người Hồi giáo, cần phải hiểu biết họ, để đối thoại với họ.

Giai đoạn này cũng đánh dấu lần đầu tiên các dòng tu đưa việc truyền giáo vào trong sứ vụ của dòng. ((X. Lm. Phi Khanh Vương Đình Khởi, OFM. Cuộc Gặp Gỡ Giữa Thánh Phanxicô Và Người Islam – Một Khởi Đầu Cho Đối Thoại Liên Tôn)

phailamgi_Những khuôn mẫu truyền giáo trong lịch sử truyền giáo của Hội thánh_3.jpg
Người Công giáo vùng Amazon. Ảnh Open Canada

Truyền giảng Tin mừng cho châu Mỹ Latinh

Việc khám phá những lục địa mới đã mở rộng những chân trời mới cho việc truyền giáo. Tại tân thế giới, các thừa sai gặp những dân tộc xa lạ, với những ngôn ngữ khó hiểu, những tôn giáo và phong tục khác biệt. Hơn nữa, qua định chế “bảo trợ,” công cuộc tông đồ của các thừa sai bị lệ thuộc vào chính sách của các nước thuộc địa, trong đó, việc trở lại đạo nằm trong kế hoạch bành trướng của chế độ.

Trong các lãnh thổ “bảo trợ” của Tây Ban Nha ở Châu Mỹ, việc xâm lăng trở thành cuộc chiến đấu chống ngoại giáo… Khi đi đến một vùng nào đó, quân đội ban hành một tuyên cáo, trong đó nhân dân được lệnh phải chấp nhận Kitô giáo và nhìn nhận chủ quyền của quốc vương Tây Ban Nha. Ai khước từ sẽ bị mất tự do hoặc mạng sống. Ngoài ra, những người đô hộ còn nhận được đất đai làm đồn điền của nhà vua và có quyền cưỡng bách thổ dân phải làm việc tại đó.

Các thừa sai đi theo chân quân đô hộ. Họ không được chuẩn bị cho môi trường tông đồ mới, và họ không có kinh nghiệm về các nền văn hóa của các dân tộc khác. Phương pháp của họ là cào bằng và dùng vũ lực nếu cần.

Chế độ bảo trợ đã mang lại kết quả là sự bành trướng Kitô giáo nhất là tại Châu Mỹ và tại Philippines, nhưng đối lại nhiều nền văn hóa đã bị phá hủy, nhiều cư dân bản địa phải sống lưu vong trong kiếp nô lệ. Bên cạnh đó, việc độc quyền truyền giáo của các quốc gia bảo trợ cũng làm hạn chế rất nhiều công cuộc mở mang nước Chúa...

Trên thực tế, Tòa Thánh Roma bị loại trừ ra khỏi việc điều hành các vùng đất mới được truyền giáo. Ngay cả những Văn kiện của Tòa thánh sẽ không có giá trị pháp lý nếu các văn kiện ấy không được duyệt bởi Hội Đồng đặc trách Châu Mỹ.

phailamgi_Những khuôn mẫu truyền giáo trong lịch sử truyền giáo của Hội thánh_4.jpg
Người Công giáo Ấn Độ. Ảnh: Catholic Culture

Truyền giảng Tin mừng cho người Á Đông

Trái ngược với những thành công “vang dội” của sứ vụ loan báo tin mừng tại Âu châu và Mỹ châu, công cuộc truyền giáo tại Á châu vào thế kỷ 16-17, là một thất bại nặng nề. Nhiều người cho rằng vì các nước Á châu không phải là thuộc địa của Tây Ban Nha – trừ Philippines, nên đã không có những cuộc cưỡng bức theo đạo? Người khác thì cho rằng, chính những cuộc bách hại đạo dữ dội tại Á châu đã làm cho công cuộc loan báo Tin mừng tại Á châu gặp nhiều thử thách? Bên cạnh đó, cuộc chiến về “lễ phép nước Ngô” với những quyết định xa lạ với văn hóa bản địa cũng tác động không nhỏ tới sứ vụ loan báo Tin mừng.

Trên nguyên tắc, châu Á và châu Phi được đặt dưới sự “bảo trợ” của Bồ Đào Nha, nhưng nước này không hăng say lắm với công cuộc truyền giáo. Điều này đã thúc đẩy Toà thánh thiết lập Bộ Truyền bá Đức tin (1622). Như vậy, với việc thành lập Bộ Truyền bá Đức tin, Tòa thánh muốn giành lại phần chủ động trong công cuộc rao giảng Tin mừng.

Xét về phương pháp truyền giáo, thì tại Á châu, không có chuyện sử dụng vũ lực, nhưng ngược lại, chính các Kitô hữu đã trở thành nạn nhân của vũ lực, chịu tử đạo. Rất nhiều người đã bị nhà cầm quyền địa phương bắt bớ và giết chết như tại Nhật Bản, Trung Hoa, Việt Nam, Triều Tiên. Một khía cạnh mới của kế hoạch truyền giáo là cố gắng thích nghi Tin mừng với văn hóa địa phương. Tuy nhiên, những cố gắng này đã vấp phải nhiều khó khăn do hiểu lầm, cũng như do sự cố chấp của các bên liên quan, nhất là của những quan lại triều đình, cùng các nho sĩ đương thời.

Một số gương mặt tiêu biểu của công cuộc truyền giáo tại Á châu phải kể đến: Roberto De Nobili, thánh Phanxicô Xavier, Alessandro Valignano, Matteo Ricci, Alexandre de Rhodes…

phailamgi_Những khuôn mẫu truyền giáo trong lịch sử truyền giáo của Hội thánh_5.jpg
Người Công giáo Phi Châu. Ảnh: Crux Now

Truyền giảng Tin mừng tại Phi châu

Châu Phi đã đón nhận Tin mừng ngay từ những thế kỷ đầu tiên của Kitô giáo (các cộng đoàn Ai Cập, Ethiopia, Bắc Phi). Tuy nhiên, việc truyền giáo cho những vùng sâu vùng xa (ở mạn Nam) chỉ trở nên quy mô vào thế kỷ XIX, khi các quốc gia Phi châu bị phân chia và bị xâu xé bởi chế độ thuộc địa.

Tại một vài nơi, công cuộc truyền giáo gắn liền với chế độ thuộc địa, nên đã gây ra sự lẫn lộn giữa truyền giáo và thực dân, như trường hợp của các vùng truyền giáo Tin Lành tại Uganda, Kenya, Rhodesia, Nam Phi, hoặc các vùng truyền giáo Công giáo tại Congo thuộc Bỉ, hay một vài lãnh thổ thuộc Pháp và Bồ Đào Nha.

Chế độ ủy thác của Tòa Thánh (ius commissionis: nghĩa là giao một lãnh thổ truyền giáo cho một dòng tu), một đàng đã giúp phát triển công tác truyền giáo, nhưng đàng khác đã hạn chế lãnh thổ ấy vì không được đón tiếp những sự phong phú thiêng liêng mà những dòng khác có thể mang đến.

Bên cạnh những sự kiện được coi như bóng tối này, công cuộc loan báo Tin mừng tại châu Phi đã có những phát triển vượt bậc nhờ việc Giáo hội châu Phi đã uyển chuyển trong đường lối truyền giáo. “Người ta nhận thấy một sự gia tăng hoạt động truyền giáo chưa từng thấy tại châu Phi, với những đặc tính sau đây: a/Tiến sâu vào trong nội địa; b/ Phối hợp việc loan báo Tin Mừng với sự thăng tiến con người; c/ Học tiếng địa phương, chuyển dịch sách giáo lý và Kinh Thánh; d/ Dạy chữ, mở trường học và các cơ sở bác ái, đào tạo các giáo lý viên và hàng giáo sĩ bản xứ.

Trong bối cảnh này, Giáo hội đã chứng kiến sự ra đời của rất nhiều dòng tu nam nữ được thành lập để đi truyền giáo, cũng như những hội dòng nam nữ dành cho những người địa phương muốn dâng mình cho Chúa. Khác với tại châu Á, tại châu Phi, việc đối thoại văn hóa không được đặt ra, bởi vì con người châu Phi được đồng hóa với dân mọi rợ cần học hỏi văn minh Tây phương. Nhưng có lẽ chính nhờ văn hóa thô sơ mà tỉ lệ người Phi châu trở lại đạo Kitô cao hơn là người Á châu.

phailamgi_Những khuôn mẫu truyền giáo trong lịch sử truyền giáo của Hội thánh_6.jpg
Ảnh: Vatican Media

Tóm lại

Lịch sử công cuộc loan báo Tin Mừng, với những khuôn mẫu khác biệt hoặc tương phản nhau, cho thấy rằng không có một phương pháp nào có giá trị cho mọi nơi mọi thời. Từ phương pháp tiếp xúc trong những thế kỷ đầu tiên, cho đến phương pháp bành trướng nhờ cuộc trở lại của các lãnh tụ, từ khuôn mẫu các đan sĩ cho đến khuôn mẫu của dòng hành khất giữa thời buổi Thập Tự Quân, từ khuôn mẫu tàn phá di tích ngoại giáo ở Mỹ châu đến sứ vụ thuộc địa tại châu Phi và sứ vụ hội nhập văn hóa tại châu Á. Chúng ta hiểu rằng sự hiện diện truyền giáo của Giáo hội chỉ chinh phục thực sự thế giới khi trở về với Tin mừng của Chúa Giêsu.​

Lm. Gioan Nguyễn Ngọc Nam Phong, C.Ss.R
 

Người trẻ nói gì về Loan báo Tin Mừng | Phải làm gì?

0 lượt xem

Bài viết chờ bạn bình luận

Bên trên